US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 15
Một cuộc hoà b́nh đến không đúng thời hạn
MỘT CÁI HỘP ĐÀN BẠN ĐƯA TRỐNG RỖNG
Cuộc chiến tranh
kết thúc đột ngột làm cho ai nấy đều bị bất ngờ.
Khi công tác chuẩn bị cuối cùng để đánh chiếm Fort
Bayard, một hoạt động bí mật của chúng ta hoàn toàn
không dựa vào Pháp, đang tiến triển tốt và thiếu tá
Sainteny đă từ Pháp trở về được gần một tuần th́
chúngg ta nhận được những tin tức choáng váng về quả
bom Hiroshima. Ba ngày sau, ngày
9-8, Nga tuyên chiến với Nhật và quả nguyên tử thứ
hai được thả xuống Nagasaki. Tất cả mọi công
tác chuẩn bị cho hoạt động Carbonado phải dừng lại,
bộ đội đứng yên tại chỗ và tàu bè dàn ra gần Fort
Bayard vẫn giữ nguyên vị trí ở ngoài khơi - mọi
người chờ đợi sự phát triển của t́nh h́nh sắp tới.
Ngày 10-8 (lịch Trung Quốc),
chúng tôi nhận được tin không chính thức báo Nhật đă
chấp nhận các điều kiện đầu hàng Potsdam.
Vào đầu tháng 8, không ở đâu đă
có dấu hiệu là chiến tranh ở châu Á sắp kết thúc.
Chúng tôi vẫn nghĩ rằng c̣n phải
đánh nhiều trận nữa mới tới được ngày Chiến thắng,
v́ thế mà chúng tôi cảm thấy lúng túng trong một
loạt sự việc diễn ra sau đó. Sau khi dư luận
của các vụ nổ nguyên tử đă tiêu tan, không một ai ở
châu Á lại có thể nghĩ được rằng đây lại là bước đầu
của một cuộc đấu tranh mới.
Tưởng và Chiến trường Trung Hoa của ông đă được mang
một tầm cỡ mới. Thống chế, với tư cách là
Tổng tư lệnh Tối cao, muốn được giao hoàn toàn trách
nhiệm tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trên Chiến
trường Trung Hoa - một vấn đề có liên quan trước hết
đến người Anh, Nga và cả người Pháp nữa.
Người Anh đă hối tiếc ngay lập
tức việc họ đă đồng ư về vấn đề điều chỉnh lại ranh
giới các chiến trường. Liên Xô đă không để
phí mất thời gian bằng cách điều động quân đội sang
bảo vệ các quyền lợi của họ ở Măn Châu Lư.
C̣n người Pháp, không được hỏi ư
kiến Potsdam, đă hoàn toàn mất tinh thần bởi sự bất
lực của bản thân họ.
Ngay trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt, Jean
Daridan, đại biện lâm thời sứ quán Pháp, đă gặp
Wedemeyer để yêu cầu cho người Pháp tham gia vào
việc chiếm đóng lại Đông Dương và việc chuyên chở
bằng đường không cho quân đội Alessandri.
Đó là một vấn đề quân sự.
Wedemeyer đă thảo luận với tướng Alessandri nhưng đă
báo cho ông ta biết là máy bay và xăng dầu không c̣n
đủ để chi viện. Ông nói điều tốt nhất ông có thể làm
được chỉ là cho phép một phi cơ của Pháp hoạt động
giữa sân bay Mông Tự - Côn Minh và Hà Nội để chở
những nhân vật quan trọng của Pháp và ông đồng ư là
sẽ hỏi ư kiến Thống chế (Tưởng) về các vấn đề khác.
Đó là một cử chỉ vô dụng v́ Tưởng đă có quyết định
cho phép quân đội Pháp được đi xuyên qua đất liền từ
Mông Tự đến biên giới của tỉnh Lào Cai, vượt một cự
ly 75 dặm và rồi từ đó đi về Hà Nội thêm 1.000 dặm
nữa. Wedemeyer không ở trong tư thế có thể bác bỏ
mệnh lệnh của Tưởng. Đối với người Pháp, điều này
cũng tương đương như đă bị làm tê liệt ở Trung Quốc,
trong khi Trung Hoa một ḿnh chiếm đóng Đông Dương.
Thấy bị thất thế với giới quân sự, Darian liền t́m
đến Fllis O. Briggs, cố vấn Đại sứ quán của chúng
ta. Darian nói với Briggs rằng ông đă thảo luận về
vấn đề địa vị của Pháp với bác sĩ KC. Wu, quyền Bộ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc và nhận mạnh tới việc
t́nh h́nh có thể sẽ có một “hiệu quả hết sức xấu” và
gây thiệt hại nghiêm trọng cho mối quan hệ Pháp -
Hoa nếu như quân đội Pháp không được phép tiến vào
Đông Dương. Đồng thời ông cũng báo trước là sẽ có
“rối loạn nghiêm trọng” nếu như chỉ có quân đội
Trung Quốc tiến vào đó một ḿnh.
Để tăng thêm sức nặng cho lập luận của Pháp, Darian
đă nhắc cho Brigss nhớ là c̣n có chừng 1 vạn tù binh
chiến tranh người Pháp ở Đông Dương và quân đội của
Alessandri có thể sẽ là những người giúp việc chăm
lo đến các nhu cầu của số này. Trả lời của Briggs là
chiếu theo các điều kiện
đầu hàng th́ người Nhật phải chịu trách nhiệm chuyên
chở một cách an toàn các tù binh chiến tranh tới các
địa điểm do Bộ chỉ huy Đồng minh quy định.
Darian đă rút lui, mất tinh thần
và thất vọng. Trong lúc đó, đă có hai sư đoàn
Trung Quốc ở gần Nam Ninh được dự kiến chuyển vận
vào Đông Dương để thực hiện việc giải giáp, hồi
hương và tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật. Đại sứ
Hurley, lường trước một cuộc xung đột tiềm tàng
trong t́nh h́nh đó, đă khuyến cáo với Bộ Ngoại giao
(Mỹ) như sau:
“…Pháp mong muốn gấp rút khôi phục chủ quyền trọn
vẹn của ḿnh ở Đông Dương vào một thời điểm sớm nhất
có thể được và nh́n một cách không có thiện cảm bất
kỳ đội quân Trung Quốc nào tiến vào Đông Dương.
…Người Pháp muốn gỡ thể diện bằng việc chính họ phải
được tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật (ở Đông Dương)”.
Đó là một điều không thể được v́ đă có chỉ thị và
vấn đề này đang được thi hành, và như Hurley nhận
xét, ông cũng như Wedemeyer chẳng ai có quyền ǵ để
thay đổi các điều khoản về đầu hàng đă được qui
định. Nếu không có Bộ ngoại giao hướng dẫn th́
Hurley đă gợi ư cho Thống chế nên có những cuộc
thương lượng trực tiếp giữa hai Chính phủ Trung Quốc
và Pháp để cho phép đại diện của Pháp tham gia vào
việc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương.
Vấn đề ai là người tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở
Đông Dương cũng đă khơi dậy một sự quan tâm to lớn ở
các nơi khác. Bộ trưởng Byrnes
đă chỉ thị cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho
Bidault biết rằng người Nhật sẽ chỉ đầu hàng với
Tưởng ở phía Bắc và với Mountbatten ở phía Nam.
Điều đó đă bao hàm một ư là việc “phân chia” ở vĩ
tuyến 16 bắc là một vấn đề “đơn thuần tác chiến”… và
không có một ư nghĩa chính trị nào khác. Ông lại nói
thêm rằng chúng ta đă gợi ư cho Chính phủ Anh và
Trung Hoa để họ mời đại diện của Pháp tham dự vào
buổi lễ tiếp nhận đầu hàng và người Pháp phải giải
quyết vấn đề này trực tiếp với các Chính phủ nói
trên.
Sự sụp đổ đột ngột của Nhật đă làm bung ra công khai
những bất đồng sâu sắc về các vấn đề đất
đai thuộc địa mà suốt
trong thời kỳ chiến tranh người ta đă phải ḱm chế
không nói đến. Anh đă thông báo cho Chính phủ Trung
Hoa là Vương quốc Anh đang chuyển quân chiếm và khôi
phục lại nền cai trị ở Hongkong, đồng thời cũng đă
phái một lực lượng đến Sài G̣n để giữ việc kiểm soát
các hành dinh quân Nhật ở đây. Cũng với một thái độ
coi thường mà họ vẫn hay dùng để đối xử với người
Trung Quốc, người Anh đă thông báo một cách giản đơn
cho họ biết rằng các sự kiện xảy ra đă rất ăn khớp
với sự điều đ́nh về các đường ranh giới chỉ huy ở
Đông Dương và cũng không c̣n việc ǵ phải bàn về vấn
đề này nữa. V́ vậy, người Anh cho rằng Chính phủ
Trung Hoa sẽ đồng ư về mục tiêu chung của Anh và
Trung Quốc ở Đông Dương là sẽ phục hồi lại nền cai
trị của Pháp và tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội
Pháp và các quan chức hành chính v́ mục đích trên
càng sớm càng tốt.
Người Trung Quốc rất căm phẫn và
đă chống lại sự độc đoán của Anh. Tưởng đă
thẳng thừng báo cho Anh biết họ chống lại thể thức
tiếp thu đầu hàng đă được
chấp nhận và ghi trong bản mệnh lệnh chung số 1, và
người Trung Quốc không tán thành đề nghị của Anh.
Bác sĩ Wu đă gặp Hurley vào ngày 18-8 và trao cho
ông một bản sao lời phúc đáp của Trung Quốc ra lệnh
cấm người Anh cho quân đội đổ bộ vào bật cứ nơi nào
trên Chiến trường Trung Hoa mà không được phép tướng
Mac Arthur và Tưởng, nhưng lại bảo đảm là Chính phủ
Trung Hoa sẽ tôn trọng tất cả các quyền lợi hợp pháp
của Anh và sẽ bảo vệ cho các quyền lợi đó.
Cùng ngày, Tưởng điện cho Tổng
thống Truman nhắc lại đề nghị của Anh và lập trường
của bản thân ông. Tưởng đă kết luận bằng lời
tuyên bố rằng nếu Anh cứ tiến hành các bước đi đă
được dự định th́ sẽ là một điều “bất hạnh” lớn cho
Đồng minh và gợi ư với Tổng thống thúc ép người Anh
phải “kiềm chế đừng để có bất cứ hành động không thể
bảo đảm được nào”.
Yêu cầu của Darian với người Tnlng Quốc cho chuyển
quân đội Pháp từ Trung Quốc vào Đông Dương đă làm nổ
ra một cuộc khủng hoảng khác, nhưng Tưởng cũng đă có
thể giải quyết được theo kiểu cách riêng của ḿnh.
Tưởng đă đồng ư với Darian sẽ để
cho người Pháp quay trở lại phía nam biên giới.
Ông ta cho biết lúc đó người Pháp không có phương
tiện vận tải dư thừa nên người Pháp muốn th́ họ phải
đi bộ, tay cầm tay như trước đây, cùng với lực lượng
chiếm đóng của Trung Quốc và dưới sự “điều khiển”
của người chỉ huy họ. Sau đó, cứ như là một việc
được nhớ tới một cách muộn mằn, Darian lại đươc báo
cho biết thêm là ngay sau khi ấn định được thời gian
và địa điểm để tổ chức việc tiếp nhận đầu hàng và
sau khi đă chỉ định xong viên tư lệnh người Trung
Hoa được uỷ nhiệm làm việc đó th́ tướng Alessandri
sẽ được mời đi cùng với viên tư lệnh ấy. Điều đó đă
thực sự trở thành một cân chuyện rùm beng rỗng tuếch
như những tiếng đàn banđua om
ṣm.
Đề nghị của Anh và sự bác bỏ đề
nghị đó của Trung Quốc đă đặt Tổng thống Truman vào
một thế khó xử giữa hai đồng minh. Thủ tướng
Atllee đă điện cho Tổng thống, yêu cầu sửa lại chỉ
thị trước đây của Tổng thống cho Mac Arthur để cho
phép người Nhật giao nộp Hongkong cho người Anh. Ông
ta lấy cớ là thuộc địa Anh không thể được giải thích
là “thuộc Trung Quốc” v́ đó rơ ràng là vùng đất đai
thuộc chủ quyền Anh, không có liên quan ǵ đến vấn
đề ranh giới, quân sự của chiến trường.
Nhưng người Anh cũng báo cho
Tưởng biết rằng sự có mặt của một đại diện Trung
Quốc trong việc tiếp nhận đầu hàng cũng vẫn sẽ được
“hoan nghênh”.
Dù sao đi nữa th́ Hurley cũng
vẫn cứ bực tức. Ông đă nhận được một bản sao
lời phúc đáp của Anh cho người Trung Quốc, trong đó
có nói trong khi Đại sứ quán Anh gửi bản đề nghị đầu
tiên cho Trung Quốc th́ họ chưa được xem bản Mệnh
lệnh chung số 1 nhưng v́ thiện chí họ đă báo cho
Trung Quốc biết những ư định của họ. Vào cuối giờ
buổi sáng hôm đó(1), Đại sứ quán chúng ta được thông
báo cho biết là Chính phủ London khăng khăng đ̣i
quân Nhật ở Hongkong phải đầu hàng người Anh nhưng
lại chịu nhượng bộ ở Đông Dương và sẽ tuân theo
những quyết định trong Bản Mệnh lệnh chung số 1 với
điều kiện là người chỉ huy cao cấp nhất của Nhật ở
Sài G̣n phải đầu hàng người Anh c̣n người Trung Quốc
sẽ tiếp thu ở Hà Nội việc đầu hàng của các chỉ huy
Nhật cấp dưới phụ trách vùng phía bắc thuộc chiến
trường Trung Hoa. Để xoa dịu,
người Anh sẽ mời một đại diện Trung Quốc đến dự buổi
lễ tổ chức tại Sài G̣n.
Điều tôi được nghe sau hết về
cuộc căi lộn này trước khi tôi đi Hà Nội là Tổng
thống đă làm áp lực đối với Tưởng, bắt phải chấp
nhận yêu cầu của người Anh. Ngày 21-8, ông đă
điện cho Tưởng biết rắng vấn đề Hongkong “trước hết
là một vấn đề mang tính chất tác chiến quân sự” và
đó không phải là vấn đề chủ quyền của người Anh như
người Trung Hoa đă nêu lên. Sau
khi chuyển tới Tưởng một ít lời hoan nghênh về sự
thông cảm và hợp tác của Tưởng, Tổng thống đă kết
luận rằng phương thức mới được sửa lại “đă đưa ra
một cách giải quyết hợp lư”.
Hai ngày sau, Tưởng đáp lại là ông “đồng ư uỷ quyền”
của ông cho một chỉ huy người Anh và kết luận: “Ngài
Tổng thống, tôi đă làm như vậy là xuất phát từ ḷng
mong muốn lớn được cộng tác với ngài về mọi mặt mà
tôi có khả năng. Tưởng Giới
Thạch.”
Truman đă công nhận sự khuất phục của Tưởng trước
thực tế của t́nh h́nh: “Xin nhận lấy sự đánh giá cao
của tôi về hành động chung
của ngài đối với việc Nhật đầu hàng một chỉ huy
người Anh ở Hongkong. Hành động
đó của ngài đă giúp gỡ được một t́nh huống khó
khăn”.
CÁC TOÁN “MERCY” NHÂN ÁI
Khi chiến tranh kết thúc có độ 2 vạn tù binh chiến
tranh người Mỹ và Đồng minh, và khoảng 1,5 vạn
thường dân bị cầm tù trong tay người Nhật. OSS đă
xác định được chỗ của họ bị giam ở các vị trí tại
Mân Châu Lư và Nam Triều Tiên đến Đông Dương. Các
nhà chức trách Đồng minh rất lo lắng về việc quân
đội bại trận Nhật có thể trả thù đối với những người
họ đă bắt giữ hoặc có thể ngưng tiếp và cung cấp
thuốc men để cho họ chết khi người Nhật rút lui.
OSS đă nhận được chỉ thị phải
chuẩn bị kế hoạch cho một chiến dịch cứu trợ và đến
cuối tháng Bảy, chúng tôi đă tổ chức ra một số toán
kiểu biệt kích được gọi chung là các toán “Mercy”.
Nhiệm vụ của các toán này là nhảy dù xuống các trại
tù binh chiến tranh trước khi cuộc xung đột kết
thúc, đảm bảo an ninh cho tù binh, ngăn chặn mọi sự
hành hạ và thu dọn các sân bay ở gần đó để nhanh
chóng chuyên chở tù binh đi bằng đường không. Đối
với OSS th́ các toán này cũng sẽ tạo cơ hội thuận
tiện để theo dơi các mục
tiêu t́nh báo và hoạt động chiến tranh chính trị sau
khi địch đầu hàng. Chưa ai có thể đoán trước được
phản ứng của Nhật ra sao, nên hoạt động cứu trợ này
đă được ấn định tiến hành theo 5 bước: trước hết là
bắt liên lạc với các trại đă được lựa chọn để xác
định số lượng và t́nh h́nh thể lực của tù binh, bước
thứ hai là đơn vị Mountbatten cho in những truyền
đơn để thả xuống báo cho Nhật biết là một toán OSS
sẽ tới v́ mục đích nhân đạo, sau đó các toán sẽ được
thả dù xuống các nơi có trại giam, kèm theo việc thả
dù các đồ tiếp tế, cuối cùng là tù binh hoặc các
người bị giam sẽ nhanh chóng được sơ tán đi.
Khi có tin Nhật đầu hàng th́ OSS cũng đă sẵn sàng.
Đội Không quân thứ 14 đă cung cấp máy bay và mọi thứ
cần thiết cho 4 đợt xuất kích từ Hsian (San) vào Bắc
Kinh, Weihsien, Harbin và Mukden. Ngày 15-8, 3 trong
số 4 toán Mercy đă được tung
đi, nhưng chuyến bay về Harbin phải huỷ bỏ v́ chúng
ta không giải thích nổi điều đó cho người Nga rơ.
Toán hạ xuống Mukden đă được người Nhật báo cho biết
là những cuộc đổ bộ sau này phải đuợc
thu xếp trước với họ.
Suốt trong 7 ngày sau, lại có thêm 3 toán bổ sung
nữa được gửi đến Thương Hải, đảo Hải Nam và Hà Nội.
Tôi cầm đầu toán bay đi Hà Nội.
Khi chúng tôi chuẩn bị được nửa
chừng, chúng tôi dồn dập nhận được rất nhiều điện
tín của các đơn vị OSS phân tán ở các nơi, yêu cầu
cho phép họ được giữ một cách đầy đủ vai tṛ của
những người chiến thắng. Vấn đề đầu hàng của
người Nhật ở bất kỳ nơi nào trên Chiến trường Trung
Hoa đều là việc dễ gây rắc rối cho Bộ chỉ huy Mỹ.
Trong bất kỳ trường hợp nào chúng tôi cũng không
được cho phép quân đội Mỹ chấp nhận, dù chỉ là một
sự đầu hàng của một đơn vị, mà không có sự đồng ư
của Trung Quốc. Và thực tế chúng
tôi đă làm như vậy. Đối với quân đội Mỹ mà
cũng bị kích động và phản ứng với các điều khoản đầu
hàng như thế th́ người ta cũng có thể tưởng tượng
được là các điều khoản đó đă xúc phạm đối với những
người Pháp kháng chiến theo De Gaulle ở Trung Quốc
như thế nào, và những cố gắng của họ nhằm phá bỏ các
mệnh lệnh hiện hành cũng có thể trở thành dữ dội ra
sao.
MỘT PHÁI ĐOÀN TỰ
PHONG
Sau cuộc ném bom
Nagasaki mấy ngày, Sainteny đă yêu cầu gặp tôi v́ có
việc khẩn cấp.
Tôi không được nghe nói tới ông
ta kể tới khi ông ta ở Paris trở về, nhưng tôi cũng
không ngạc nhiên mà cũng chẳng hào hứng ǵ đối với
yêu cầu của ông. Chúng
tôi đă gặp nhau tại trụ sở của tôi vào ngày 12-8.
Lúc đó ông ta có Flichy đi cùng
và đă thể hiện có một thái độ không cứng nhắc như
trước.
Với một phong cách ít nhiều nhún
nhường, ông đi thẳng vào vấn đề. Ông thừa
nhận một cách buồn bă là chiến tranh đang đi đến chỗ
kết thúc, vượt lên trên dự kiến của người Pháp, do
đó, cần thiết phải sửa đổi lại các kế hoạch của Pháp
để đối phó với t́nh h́nh đang thay đổi. Theo
Sainteny, chính phủ Pháp đă không chuẩn bị thành lập
một chính phủ quân sự mà cũng chẳng đặt ra bộ máy
cai trị lâm thời của người Việt Nam, do người Pháp
đỡ đầu, chủ yếu chỉ v́ Pháp “đă không được phép” tập
trung lực lượng quân đội của Pháp sang Viễn Đông.
Tôi đă hỏi ông về những chỉ thị ông đă nhận được từ
Paris về việc Pháp trở lại Đông Dương. Ông ta buột
miệng trả ḷi “không có ǵ”, nhưng sau đă giải thích
thay vào đó là ông đă nhận được chỉ thị của đại tá
Rose ở Ấn Độ và ông này có liên lạc trực tiếp với
Paris. Chính sách của Pháp, theo ông nói, là giữ một
thái độ bị động trước việc chiếm đóng lại Đông Dương
v́ người Pháp không có khả năng thực hiện việc trở
lại với một cuộc biểu dương “lực lượng vơ trang hùng
mạnh”.
Kế hoạch trước mắt của ông là “thăm ḍ các lực lượng
khác nhau ở Đông Dương” trước khi toan tính cho
người Pháp quay trở lại. Để làm việc đó, Chính phủ
Pháp đă chỉ định một “Ủy ban” ba người: Sainteny,
với tư cách là thủ trưởng DGER/Côn Minh; Tổng thanh
tra các thuộc địa (không nêu tên); giám đốc công dân
vụ Pierre Mesmer, lúc đó ở Calcutta, đang chờ được
đưa tới Trung Quốc. Họ sẽ đến ngay Hà Nội để tiếp
xúc với các lănh tụ Việt Nam ở địa phương và điều
đ́nh với họ theo những
“điều khoản có lợi cho người Đông Dương”.
Theo Sainteny th́ “Ủy ban” được
trao quyền thương lượng và cam kết thay cho Chính
phủ Pháp. Những điều đạt được và những điều
khuyến cáo của Ủy ban sẽ được chuyển tới De Gaulle,
các Bộ trưởng ngoại giao và thuộc địa và cho Chính
phủ Pháp. Ông đă được “bảo đảm” là các điều cam kết
của Ủy ban sẽ được chính phủ Pháp tôn trọng, hoặc
nếu cần th́ có sửa đổi chút ít.
Trong lúc ấy, Sainteny nhắc lại, Chính sách của
chính phủ Pháp là nhằm “làm dịu bớt” việc quay trở
lại của người Pháp cho thích hợp với t́nh h́nh.
Ông nói với tôi, ông muốn làm
một chuyến bay mở đầu đến Hà Nội, cùng với 4 hay 5
nhân viên trong Bộ tham mưu của ông. Ông cũng
muốn bắt liên lạc với nhân viên của ông, thiếu tá
Blanchard, đă được phái đến vùng Hà Nội ngày 8-8, và
qua người này, Sainteny sẽ bắt mối với các lănh tụ
địa phương. Ông dự định sẽ ở lại Hà Nội 48 tiếng,
sau đó trở về Côn Minh báo cáo những điều ông đă
thấy cho hai ủy viên khác của Ủy ban, cũng như với
Tổng đại diện quân sự, tướng Alessandri. Rồi Ủy ban
sẽ báo cáo tổng hợp các điều phát hiện được cùng với
các lời khuyến cáo cho Chính phủ Paris; và trên cơ
sở đó, cả ba người sẽ đến Hà Nội để thành lập một bộ
máy cai trị lâm thời của người Pháp “với sự tán
thành của người Đông Dương”.
Sainteny đă nói rộng ra ít nhiều
về lập trường của Pháp. Nếu như những cuộc
thương lượng dự định bị thất bại hoàn toàn, Chính
phủ Pháp sẽ không có hành động ǵ và để hoàn toàn
cho Mỹ và Anh lập lại trật tự ở Đông Dương. Ông bảo,
“Ủy ban” cảm thấy chắc chắn rằng, người Mỹ cũng như
người Anh đều không chuẩn bị hoặc muốn duy tŕ những
lực lượng chiếm đóng ở Đông Dương, mà sẽ chỉ để cho
người Trung Quốc và người Pháp làm việc đó.
Theo Sainteny, nếu người Trung Quốc được lựa chọn,
th́ người Pháp tin chắc rằng Thống chế sẽ cử tướng
Trương Phát Khuê làm đại diện của ḿnh để tiếp nhận
việc đầu hàng của người Nhật ở Hà Nội. Ông nghĩ rằng
Trương sẽ được hâm mộ hơn các tướng của Thống đốc
Long Vân, nhưng người Pháp vẫn c̣n sợ xảy ra những
vụ cướp bóc, tàn phá quy mô lớn và cũng có thể nổ ra
xung đột với người Việt Nam.
Như vậy, lại có khả năng người Nhật lúc đó sẽ xin
hàng theo người Việt. Đó
cũng sẽ vừa là một điều tai
hoạ và cũng là một điều may mắn. Sainteny tin chắc
rằng trong trường hợp đó, người “Annam” sẽ không có
khả năng để đối phó với t́nh h́nh, sẽ xảy ra rối
loạn và từ đó sẽ mong muốn mạnh mẽ cho người Pháp
quay trở lại, ít nhất cũng trong một thời gian.
Sainteny cũng kể lể dài ḍng đến lời tuyên bố về
Đông Dương của Bộ trưởng thuộc địa ngày 24-4, hứa
điều mà Sainteny coi như là “các quyền tự do dân
chủ”, một sự độc lập hoàn toàn về kinh tế đối với
những quyền lợi và sự kiểm soát của Pháp. Ông đă
nhắc đi nhắc lại là Chính sách của Pháp là một “nền
cai trị tự do” nhất, vượt xa những mơ ước ngông
cuồng nhất của ngay cả “những người Annam cấp tiến
nhất”. Sainteny đă kết luận với một câu hỏi: “OSS có
thể giúp cấp cho tôi một máy bay để đi làm nhiệm vụ
ở Hà Nội được không?”.
Và, ông nói tiếp “Ồ, đúng như
vậy! Người Pháp sẽ mặc
quân phục Mỹ hoặc thường phục”.
Rơ ràng là người Pháp đă bị mắc kẹt.
Họ đă không được trang bị mà
cũng chẳng được chuẩn bị ǵ cho một cuộc tiếp quản
bằng quân sự thuộc địa cũ của ḿnh.
Tất cả điều ǵ mà Sainteny có
thể làm được trong hoàn cảnh đó, sẽ chỉ là nhanh
chóng thiết lập được một kiểu có mặt nào đó của
người Pháp trong khi chờ đợi sự ủng hộ và chỉ thị
của Paris. Hy vọng của ông trong việc dựng
lên một chính quyền Việt Nam lâm thời thân Pháp với
sự giúp đỡ hữu nghị của những người Quốc dân đảng
quốc gia (thân Trung Quốc) sẽ chỉ là một hành động
chống đỡ mạnh mẽ; nhưng h́nh như ông lại không biết
được rằng tinh thần chống Pháp của người Việt Nam đă
được kết hợp lại trong một mặt trận chính trị vững
mạnh, Mặt trận Việt Minh.
C̣n về yêu cầu OSS chuyên chở và người Mỹ che dấu
th́ tôi nói với Sainteny là tôi hiểu vấn đề của ông,
và gặp trường hợp tương tự, tôi sẽ phải dùng thử
những biện pháp như thế; nhưng việc nhờ người Mỹ che
dấu là hoàn toàn không thể đặt thành vấn đề, v́ nó
sẽ đem lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về ngoại giao.
Ư kiến của Sainteny về việc người Nhật đầu hàng
người Đông Dương là không có căn cứ.
Người Nhật đă được lệnh chỉ đầu
hàng những chỉ huy Đồng minh được chỉ định về việc
này, và người Việt Nam không thuộc vào hàng các
người đó. Tôi nói với Sainteny rằng tôi không
tin là Chiến trường lại muốn chuyển một máy bay dùng
vào các kế hoạch của các toán Mercy sang làm một
việc khác, nhưng tôi cũng sẽ chuyển lời yêu cầu của
ông cho Chiến trường. Trước khi
ra về, Sainteny cám ơn tôi đă nghe ông ta một cách
có thiện cảm và gợi ư là ông và người của ông có thể
được ghép vào toán Mercy đi Hà Nội.
Tôi hứa là sẽ khêu gợi vấn đề đó
với Bộ chỉ huy và cũng ngay chiều hôm đó, tôi chuyển
yêu cầu của Sainteny đến OSS/Trùng Khánh. Hai
ngày sau, tổng hành dinh của Wedemeyer đáp lại rằng
việc cho người Pháp tới Hà Nội trong chuyến bay của
toán Mercy là không mang lại lợi ích ǵ và sự có mặt
của người Pháp ở Hà Nội đang được thu xếp “trong một
thời gian thích hợp”.
MỘT TRỞ NGẠI KHÔNG ĐÁNG KỂ DO TRỜI MƯA
Thực tế chỉ trong
ngày một ngày hai mà khu cư trú của chúng tôi ở Côn
Minh đă thay đổi từ một trung tâm chỉ huy quân sự
thành một tiền đồn cho việc chỉ đạo chính trị.
Những phần tử ngoại quốc - Pháp, Hà Lan, Anh và
Trung Quốc - trước đây được nguỵ trang cẩn thận, nay
lộ mặt xuất hiện tại hành dinh của OSS để chuẩn bị
cho các công tác sau chiến tranh, hoặc phải đặc biệt
xử lư việc này hay việc khác.
Nhân viên OSS chúng tôi bận rộn chẳng kém ǵ những
ngày c̣n chiến tranh.
Lúc đó trời mưa.
Trong những ngày đầu tháng 8 mưa
c̣n nhỏ, nhưng càng ngày càng trở nên dữ dội.
Giữa tháng 8, mưa to đă gây
thành một trận lụt tệ hại nhất.
Côn Minh biến thành một cái hồ
lớn.
Nhưng trận lụt cũng không ngăn cản được sự chuẩn bị
sôi nổi của toán Mercy, mà cũng chẳng làm nhụt chí
được những người Triều Tiên, Miến Điện, Thái Lan và
Việt Nam trong việc vật lộn một cách vất vả với bản
báo cáo “bí mật”, các sơ đồ và đề nghị về các sự
nghiệp khác nhau của họ. Nổi bật nhất là những người
Việt Nam, họ yêu cầu được đối xử một cách đặc biệt
và yêu cầu được sự ủng hộ của Đồng minh, đặc biệt là
của Mỹ.
Người phát ngôn của Việt Minh nghiêm chỉnh đề nghị
biến Đông Dương thành một xứ bảo hộ của Mỹ và thúc
ép Mỹ can thiệp với Liên Hợp Quốc để gạt cả người
Pháp và người Trung Quốc ra ngoài kế hoạch chiếm
đóng lại Đông Dương của Đồng minh.
Đại diện của Hồ Chí Minh rất lo
lắng về kế hoạch chiếm đóng của Trung Quốc.
Họ sợ rằng những người láng giềng phương Bắc sẽ trở
thành những kẻ đi chiếm đất đai
ở Đông Dương, sống bằng sự cướp bóc, tước đoạt.
Người Pháp đồng ư với những mối lo lắng nói trên,
nhưng thêm vào đó lại muốn giữ độc quyền về
cai trị cho bản thân
ḿnh.
Tổng bộ Việt Minh ở Hà Nội đă gửi đến một công hàm
để giải thích rơ lập trường của họ, trong đó có đoạn
viết:
“Nếu người Pháp mưu toan trở lại Đông Dương để ḥng
cai trị đất nước này và một lần nữa lại đóng vai
những kẻ đi áp bức; th́ nhân dân Đông Dương sẵn sàng
chiến đấu đến cùng,, chống lại việc tái xâm lược đó
của Pháp. Mặt khác, nếu họ đến
với tư cách là những người bạn để gây dựng nền
thương mại, công nghiệp mà không có tham vọng thống
trị, th́ họ sẽ được hoan nghênh như bất kỳ cường
quốc nào khác.
Tổng bộ mong muốn báo cho Chính phủ Mỹ biết là nhân
dân Đông Dương yêu cầu trước hết là nền độc lập của
Đông Dương và mong rằng nước Mỹ, người bảo vệ chế độ
dân chủ, sẽ giúp đỡ họ giành lại độc lập bằng cách
sau đây:
1. Ngăn cấm hoặc không giúp đỡ người Pháp quay trở
lại Đông Dương bằng vơ lực.
2. Kiểm soát người Trung Quốc để hạn chế đến mức
thấp nhất các cuộc cướp bóc, tước đoạt.
3. Cho các chuyên viên kỹ thuật sang giúp người Đông
Dương khai thác nguồn tài nguyên đất
đai.
4. Phát triển các ngành kỹ nghệ mà Đông Dương có khả
năng cung ứng.
Nói tóm lại, người Đông Dương
muốn sẽ được đặt ở một địa vị ngang hàng như
Philippin trong một thời gian không hạn định”.
Đây là bản thông cáo bán chính
thức đầu tiên gửi cho nước Mỹ và tôi cũng cảm thấy
nó có đầy đủ mức quan trọng để được chuyển về cho
tướng Donovan và đă được Helliwell điện đi vào ngày
18-8.
Trong khi đó, mùa trở nên tồi tệ hơn, và cũng chẳng
có việc ǵ khác phải làm, Sainteny và tôi gặp nhau
lần thứ hai (vào sáng ngày 16-8) để trao đổi về vấn
đề Trùng Khánh bác bỏ chuyến đi của ông đến Hà Nội.
Sainteny rất nôn nóng khó chịu và kết tội OSS là đă
ăn cánh với người Trung
Quốc để phá hoại kế hoạch quay trở lại của người
Pháp. Ông ta cáu giận đến trở thành mất trí và vô
chính trị, doạ không công nhận chính sách của Chiến
trường, tiếp tục làm theo
ư ḿnh, được ǵ th́ được. Tôi khuyên giải ông và hứa
thử hỏi một lần nữa Trùng Khánh cho ông tham gia
giúp đỡ việc quản lư các tù binh Pháp ở Hà Nội, nếu
như ông cam đoan tự hạn chế ḿnh không làm những
hành động vô chính trị. Với một thái độ miễn cưỡng,
ông chấp nhận cho ông và 4 nhân viên trong Bộ Tham
mưu của ông mang quân phục Pháp được đến Hà Nội với
danh nghĩa tham gia phái đoàn của tôi.
Cùng ngày hôm đó, tôi nhận được một bản giải thích
thêm của Chiến trường: phải nói thêm cho Sainteny và
4 nhân viên của ông một cách rơ ràng là họ phải hạn
chế hoạt động trong các nhiệm vụ có tính chất nhân
đạo trong cộng đồng người Pháp.
Nhưng trời mưa đă làm trở ngại cho việc xuất phát
của chúng tôi lúc đó.
Nôn nóng muốn đến Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ “bí
mật” của ḿnh, Sainteny đă kiếm được một máy bay
Pháp, một chiếc C.47 vừa mới ở Calcutta tới. Chiếc
máy bay này do một phi công dân sự tên là Fulachier
lái cho hăng Air France đưa đến để nhằm khôi phục
lại các chuyến bay giữa Ấn Độ và Trung Quốc, sau khi
được Đại sứ quán và Chính phủ Trung Hoa bàn xong các
vấn đề chi tiết. Cuối buổi chiều
hôm đó, Helliwell báo cho tôi biết là Sainteny đang
chuẩn bị dùng một máy bay Pháp để nhảy dù xuống Hà
Nội. Alessandri cũng yêu
cầu tướng Hà Ứng Khâm cho phép máy bay Pháp bay tới
Hà Nội. Yêu cầu trên đă bị bác bỏ và người
Trung Hoa đă cho binh lính tới canh giữ chiếc phi cơ
của Pháp với mệnh lệnh là không cho người nào lên
máy bay đi Hà Nội. Mệnh lệnh đă nói gộp cả lại: “Tất
cả các máy bay, không kể từ đâu đến và thuộc quốc
tịch nào, đều không được cất cánh để bay đi Đông
Dương thuộc Pháp cho đến khi có lệnh mới”.
Ngày hôm sau lại xảy ra một
chuyện khác với Sainteny. Ông đă tấn công tôi
dồn dập với những lời buộc tội, nào là người Mỹ phản
bội người Pháp, cá nhân tướng Wedemeyer đă gây trở
ngại cho người Pháp ở Chiến trường, người Mỹ ở Trung
Quốc tuy không cố t́nh nhưng lúc nào cũng hùa theo
với mưu đồ của người Trung Quốc. Ông nói ư nghĩ
riêng của ḿnh,, cho là
Wedemeyer đă không trung thực với người Pháp ngay từ
những lúc đầu. Khi tôi hỏi ông
điều ông dự tính làm trong những ngày sắp tới, ông
gượng gạo nói rằng ông chẳng làm ǵ cả ngoài việc
ngồi chờ chỉ thị của Trùng Khánh.
Sau đó, tôi t́nh cờ được biết là Sainteny đă cho một
toán 10 người do Blanchard phụ trách, xâm nhập vào
Hải Pḥng để bắt liên lạc với người Nhật ở Hà Nội và
xúc tiến công tác với trung tá Kamiya, một cựu sĩ
quan liên lạc Tổng hành dinh quân Nhật ở Hà Nội với
chính quyền Decoux. Nhưng Kamiya đă giữ toán người
Pháp lại ở Hải Pḥng và đă hạn chế hoạt động của họ
vào việc chuyển những tin tức thời tiết cho người
Pháp ở Côn Minh.
Đúng như điều chúng tôi lo ngại, người Nhật đă tiếp
đón máy bay Đồng minh của các phái đoàn Mercy khác
một cách rất lộn xộn. Hơn nữa, một phi cơ Đồng minh
khi bay qua Hà Nội ngày 19-8 đă bị hoả lực pḥng
không bắn, nên Bộ chỉ huy Chiến trường quyết định
hoăn chuyến đi Hà Nội của chúng tôi cho đến khi nào
cơ quan chỉ huy Nhật ở Hà Nội nhận được thông báo là
chúng tôi tới đó. Bấy giờ trời mưa lại ngăn trở
không cho máy bay cất cánh.
Những khó khăn phiền toái với người Pháp ở Trung
Quốc đă là đầu đề cho vô khối
thư từ công văn giữa Trùng Khánh và
Washington. Và tướng Donovan đă phải chỉ thị cho
Heppner phối hợp chặt chẽ mọi kế hoạch của OSS có
liên quan đến người Pháp trở lại Đông Dương với Bộ
chỉ huy chiến trường và Đại sứ quán Mỹ. Trong lời
giải đáp cuối cùng đối với chỉ thị của Donovan,
Helliwell đă điện báo:
“Phúc đáp diện 642, chúng tôi đă tiến hành công việc
theo như đă được hướng dẫn.
Sainteny đi cùng với Patti hôm thứ bảy. Điều
đó có nghĩa rơ ràng là người Pháp hoàn toàn thuộc
quyền chỉ huy của Mỹ và cũng chỉ có những người Pháp
hoạt động với OSS. Cờ Pháp sẽ
không được dùng đến”.
Trước khi bức điện được gửi đi,
tôi đă trao đổi với Heppner về ư nghĩa của nó và yêu
cầu phải ghi rơ sự đồng ư lên bản sao tài liệu.
Nói tóm lại, không có trường hợp
nào chúng tôi đă giúp đỡ cho người Pháp trong việc
tiếp quản Đông Dương bằng vũ lực hoặc ngay cả tới
việc tỏ ra có sự đồng t́nh tham gia vào các kế hoạch
của họ.
Trong khi gặp trở ngại về thời tiết, chiều ngày
19-8, tôi có gặp nhiều nhân viên thuộc chi nhánh Côn
Minh của Mặt trận Việt Minh tại nhà của Phạm Viết
Tự. Họ cũng vừa mới nhận được những tin tức rất phấn
khởi từ Hà Nội, và khi tôi tới, tôi thấy họ đang rộn
lên v́ vui mừng. Tống Minh
Phương đă được một người bạn của Thái Hà ấp ngoại ô
Hà Nội, báo cho biết là Hà Nội đă nổi dậy.
Họ kể lại một cách sơ sài là vào
ngày 17-8, chính quyền địa phương Việt Nam của chế
độ Bảo Đại đă tổ chức một cuộc biểu t́nh để ủng hộ
Chính phủ trung ương của Trần Trọng Kim. Tổng
hội viên chức(2) là người
đứng ra tổ chức cuộc biểu t́nh ở địa phương và một
đám quần chúng tới 2,5 vạn người đă tập hợp ở trước
cửa Nhà hát lớn thành phố. Không rơ t́nh h́nh đă xảy
ra như thế nào, chỉ biết là các đội viên đội vơ
trang tuyên truyền đă chiếm lấy các cuộc mít tinh
kêu gọi quần chúng lật đổ Chính phủ “bù nh́n”, đi
theo Việt Minh và giành chính quyền về cho nhân dân.
Theo những tin tức nhận được th́ người Nhật đă không
can thiệp và Ủy ban thành Hà Nội đă nắm lấy cơ hội
thuận lợi có cuộc mít tinh lớn
lao đó để thúc đẩy t́nh h́nh tiến tới một
cuộc khởi nghĩa qui mô rộng toàn thành phố.
Sau những gị phút bị kích động
cao độ lúc đầu, nhóm Côn Minh cũng tỏ ra thấy rơ
được t́nh h́nh hơn, một số nghĩ rằng hành động của
Ủy ban Thành Hà Nội là quá sớm.
Nếu người Nhật quyết định đàn áp
cuộc nổi dậy th́ sao.
Chuyện ǵ sẽ sẩy ra nếu Đồng minh, và đặc biệt là
Trung Quốc cho chuyển người Pháp vào Đông Dương với
bọn bù nh́n Quốc dân đảng? Không rơ Giải
phóng quân có sẵn sàng đối phó với t́nh h́nh không?
Đây là điều lo lắng đă xen vào
niềm vui hân hoan của họ, tuy chẳng ǵ có thể che
giấu được ḷng tự hào và những cao vọng của họ.
Tự và các người cộng sự với ông
hướng về phía tôi, nhưng tôi cũng chẳng làm ǵ được
để họ yên tâm. Tôi chỉ có thể gợi ư được rằng
phải thận trọng, đừng để cho t́nh h́nh tuột khỏi
tay và dẫn đến những sự
đổ máu không cần thiết, dù là người Việt hay người
Pháp cũng vậy.
Cũng ngay chiều hôm đó, tôi đă
nói lại với Helhwell và Heppner về những ǵ tôi đă
nghe được và gợi ư là phải báo cáo với tướng
Wedemeyer. Helliwell đă mạnh dạn phát biểu ư
kiến, cho rằng Tưởng sẽ chẳng vui vẻ ǵ nếu như quân
đội của ông ta ở Việt Nam lại bị dồn đến chỗ phải
giữ một nền trật tự lâu dài ở Đông Dương. Heppner
th́ lo lắng đến việc sơ tán các tù nhân Đồng minh và
làm thế nào để cho quân Nhật đầu hàng mà không xảy
ra chuyện rắc rối ǵ. Mối quan tâm chủ yếu của tôi
lại là chung quanh vấn đề
người Pháp. Nếu họ được phép vào Đông Dương với
người Trung Hoa th́ chắc chắn là sẽ xảy ra xung đột
với người Việt Nam, và người Trung Hoa sẽ không
tránh khỏi lôi cuốn vào chuyện này.
Chúng tôi cũng không nghĩ tới
việc t́nh h́nh mới này đúng ra là phải được cấp
Chiến trường xem xét và quyết định. Nhưng
sáng hôm sau,, khi
Heppner thảo luận t́nh h́nh Hà Nội với tướng Gross
th́ không có ǵ có thể quan trọng hơn nữa và toán
Mercy được lệnh phải tiến vào Hà Nội ngay khi thời
tiết cho phép.
Mưa vẫn tiếp tục như trút nước.
Đường băng bị hỏng và bị ngập sâu, xăng dầu cũng bị
tràn bởi nước lũ, độ cao
thấp và tầm nh́n xa hạn chế nên không máy bay nào có
thể cất cánh được. Nhưng Sainteny vẫn c̣n lồng lộn
lên và chưa mất hết cái thói quen thích hoạt động
theo lối cửa sau. Ông
không c̣n phải giữ ǵn ǵ nữa và đă tiết lộ cho tôi
biết (điều mà tôi đă nghe từ một nơi khác) là
Blanchard đă vào Hải Pḥng, đă bắt liên lạc với
người Nhật và cũng đă báo cho người Nhật biết là
người Pháp sẽ đến trên một chiếc phi cơ của Mỹ và
không được bắn vào họ. Theo Sainteny, nói th́ như
vậy sẽ bảo đảm hoàn toàn an
ninh cho chúng tôi khi tới Đông Dương. Nhưng chỉ
riêng cái ư muốn giầy xéo lên các mệnh lệnh của
Chiến trường của ông ta cũng đă quá lố bịch và không
cần phải được thảo luận tới. Đấy là chưa kể đến sự
việc Nhật đă không chấp nhận “proposition”(3)
của Blanchard.
Chúng tôi vẫn phải đợi ở Côn
Minh. Cho đến ngày 21, một số chuyến bay ưu
tiên bậc nhất mới được phép cất cánh. Lúc đó người
Trung Quốc đă thu xếp với cơ quan liên lạc của Nhật
ở Trung Quốc để cho toán của chúng tôi hạ cánh xuống
sân bay Bạch Mai gần Hà Nội, và chúng tôi đă được
báo để xuất phát vào sáng ngày 22.
Lần này th́ không có ǵ ngăn cản
được nữa.
Chú
thich :
(1) ngày 19-8
(2) Ủy ban trung ương các công chức
(3) Đề nghị - tiếng Pháp
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures