US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 24
Những
câu chuyện rắc rối
BĂO TÁP TRONG MỘT ẤM
TRÀ
Sáng hôm sau
tôi nhận được một điện khẩn của Helliwell, nói
tôi phải giải quyết một số vấn đề của toán
Sainteny - họ thiếu lương thực, thất lạc điện
gửi về Côn Minh, và cái gọi là mối đe doạ Nhật
nhiễu phá hệ thống thông tin của họ.
Một vấn đề lớn là đại biện lâm thời Pháp trong
một cuộc đối thoại gay gắt với Đại sứ quán của
ta, đă yêu cầu giải thích điều mà Pháp gọi là
“Mỹ không thực hiện điều thoả thuận cho phép
Pháp tiếp tục được vận chuyển người Pháp và vật
liệu sang Hà Nội”.
Đây đúng là một ư đồ của
Pháp nhằm lợi dụng khai thác địa vị của Mỹ ở
Trung Quốc. V́ thực
tế, không có một sự thoả thuận nào giữa Mỹ và
Pháp có liên quan đến sử dụng, vận chuyển hay về
các mặt nào khác của quân đội Pháp ở Trung Quốc.
Chỉ có những thoả thuận được thi hành giữa Trung
Quốc và Pháp, có liên quan đến Mỹ chăng nữa th́
chỉ do lúc đó tướng Wedemeyer giữ vai tṛ Tổng
tham mưu trưởng của Tưởng. Để tránh va chạm với
Trung Quốc, người Pháp đă quay sang phía OSS,
nêu ra điều thoả thuận về hoạt động của OSS -
DGER trước đây. Heppner đă báo cho Pháp biết là
thoả thuận OSS - DGER đă hết hiệu lực từ khi
chiến tranh kết thúc, c̣n việc cấm vận hiện nay
là do chính phủ Trung Quốc quyết định.
Heppner cũng đă thông báo
cho họ hay tướng Wedemeyer đă thay mặt Tưởng ra
lệnh cấm OSS không được chuyên chở những nhân
viên không phải là người Mỹ vào Đông Dương trong
lúc này. Ông đă gợi ư cho Pháp nên gặp
Tưởng.
Cơn băo táp này, tất nhiên cũng chỉ do Sainteny
gây ra để chống lại tôi. Sainteny đă gửi điện
tín khuấy động người Pháp ở Trùng Khánh và
Calcutta về một âm mưu Hoa - Mỹ nhằm gạt Pháp ra
khỏi Đông Dương và việc OSS bày mưu lập kế để
thay thế nền cai trị của Pháp bằng Chính phủ Hồ
Chí Minh do Cộng sản đỡ đầu.
Hai bức điện điển h́nh, do Sainteny tiết lộ ra
sau này, có ghi(1):
“Chúng tôi phải đối phó với một cuộc vận động
hỗn hợp của Đồng minh nhằm loại Pháp ra khỏi
Đông Dương. Chỉ có Chính phủ (Paris) mới có thể
chống lại ở tầm cỡ quốc tế…
Điều đó cũng cần phải được hiểu là, vào giờ phút
này, bắc Đông Dương không c̣n là thuộc Pháp”.
Và:
“Thái độ của Đồng minh đối với nước Pháp có nguy
cơ làm cho chúng ta hoàn toàn bị mất mặt… làm
việc ǵ tôi cũng phải thông qua Patti.
Tôi nhấn mạnh rằng thực tế
trong lúc này, thái độ của Đồng minh có hại hơn
là của Việt Minh. Chỉ
Leclerc hoặc De Gaulle mới có thể và cần hoạt
động”.
Chiều hôm đó tôi đến gặp
Sainteny và thấy ông buồn bă.
Nhưng lần này tôi rất bực
bội. Ông dễ dàng công nhận là đă báo cáo
về Trung Quốc rằng tôi đă không hợp tác chặt
chẽ, ông và toán của ông coi như bị cầm th́ tại
chỗ và t́nh h́nh đă trở nên nghiêm trọng hơn v́
người gác Nhật đă được “thay thế” bằng những
người An Nam bất lực và hay báo thù.
Tôi hỏi một cách cộc cằn tại
sao ông lại kêu ca với Trùng Khánh về việc thiếu
thốn lương thực… và nếu quả thực thế th́ tại sao
lại không cho tôi biết trước khi báo cáo về
Trùng Khánh. Sainteny
hơi lúng túng và tỏ ra bực bội v́ thấy bị hỏi về
những điều nhỏ nhen này. Ông thanh minh
là đă có nói điều dó trước khi những người “bồi
An Nam” bỏ trốn đi, mà người Pháp th́ không được
phép ra ngoài để mua bán ǵ…
Tôi hiểu ngay vấn đề lương thực thực sự chỉ là
một cái cớ. Sainteny bảo tôi không nên
quá quan tâm đến những người Pháp ở Trùng Khánh
v́ họ không nắm được việc Sainteny phải đối phó
với những người “Cộng sản Việt Nam chống đối” và
bọn lính Nhật kiêu căng đang bao vây.
Ông cho “dân” Trùng Khánh
chỉ biết “ăn bánh ngọt, uống trà” trong khi Đông
Dương đang suy sụp. Đó chỉ là một quan
điểm cục bộ hẹp ḥi của cá nhân Sainteny; v́
chắc chắn ông biết rằng các nhà ngoại giao Pháp
ở Trùng Khánh đang cố gắng giải quyết cho xong
với Tưởng vấn đề độc quyền lănh thổ của Pháp ở
Trung Quốc… Tôi cho rằng những điều xuyên tạc và
bịa đặt của Sainteny đă chẳng giúp ǵ được trong
việc nâng cao địa vị của Pháp ở địa phương hay
trên trường quốc tế.
Tôi có hỏi tại sao ông ta lại đặt tôi vào cái
thế phải giải thích những câu chuyện vụn vặt đó
mà tôi đă không gây ra và cũng chẳng nắm được…
… Tôi không thật nắm chắc
được động cơ của Sainteny.
Đây cũng có thể chỉ là những
vấn đề nhỏ nhen cá nhân. Nhưng cũng rất
có khả năng là ông đă cố ư bịa ra chuyện để đánh
lừa, lấy cớ là Pháp thiếu, không có đủ cơ sở
tiếp tế hậu cần ở Hà Nội để xin tăng thêm số
người Pháp ở Đông Dương. Nhưng dù động cơ thật
của ông là ǵ đi nữa th́ mưu mô làm mất uy tín
của Mỹ ở Hà Nội hay ở Trung Quốc cũng đă chẳng
có ảnh hưởng ǵ tới người Trung Quốc và bất kể
thế nào th́ họ cũng vẫn là lực lượng chiếm đóng.
Tôi nói với Sainteny là tôi có gặp ông Hồ buổi
sáng và đă đề cập đến việc gặp gỡ giữa hai bên,
như ông ta đă yêu cầu, nhưng ông Hồ cho biết
rằng ông không có ư định muốn có sự gặp gỡ trong
thời điểm đặc biệt này.
Tôi muốn làm dịu bớt lời chối từ của ông Hồ nên
có ư kiến có lẽ nên thu
xếp một cuộc gặp gỡ vào những ngày sau. Sainteny
nhún vai: “Không quan trọng!
Chúng tôi sẽ làm điều mà chúng tôi phải làm.
Mặc kệ!”.
Tôi hỏi xem ông có nhận được
phản ứng ǵ của Paris đối với chính phủ mới của
Hồ Chí Minh không.
Câu trả lời của ông mập mờ, chẳng đâu vào đâu.
Như sực nhớ ra, Sainteny nói là Paris đă có kế
hoạch riêng của họ, và thực sự cũng chẳng phải
lo lắng ǵ đến các hoạt động của bọn “đỏ” ở Đông
Dương.
Cuộc nói chuyện đă kéo quá dài.
Tôi ra về và Sainteny nhắc
lại việc những “cai ngục” người Nhật của ông ta
đă được những người “Cộng sản An Nam” thay thế.
Điều gợi ư của tôi để toán
của ông rời khỏi Dinh và chuyển đến một trụ sở
ít phức tạp hơn gần Phái đoàn Mỹ, được đáp lại
là ông chỉ đóng ở nơi nào mà “sự công nhận chính
thức chủ quyền Pháp” được ghi nhận. Ông
c̣n cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng, nếu ông
không thể làm ǵ khác hơn nữa th́ ít nhất ông
cũng cần phải duy tŕ “sự có mặt của Pháp” bằng
cách chiếm đóng trụ sở cũ của Toàn quyền Pháp ở
Đông Dương.
MỘT BỨC ĐIỆN GỬI CHO TRUMAN
Nếu như người Pháp băn khoăn lo lắng
về chiến lược của Tưởng định gạt họ ra khỏi Đông
Dương th́ ông Hồ và Việt Minh của ông cũng chẳng
yên tâm trước những mưu đồ của Trung Quốc đối
với tương lai sự lănh đạo của họ. Từ sáng sớm,
Vơ Nguyên Giáp đă gửi cho tôi một thư yêu cầu
tôi chuyển bức công điện sau đây của ông Hồ gửi
Tổng thống Truman.
“Để đảm bảo có kết quả cho vấn đề mà Uỷ ban liên
tịch các nước Đồng minh có nhiệm vụ phải giải
quyết ở Việt Nam, yêu cầu để cho phái đoàn Mỹ
được làm một thành viên của Uỷ ban nói trên và
đặt quan hệ với Chính phủ chúng tôi… Chúng tôi
yêu cầu cho Chính phủ chúng tôi, chính quyền duy
nhất hợp pháp ở Việt Nam,và là người duy nhất đă
chiến đấu chống Nhật (sic) (hoạt động quân sự do
Mặt trận Việt Minh và sĩ quan Mỹ tiến hành), có
quyền có đại diện trong Uỷ ban đó.
Chính
phủ Lâm thời Cộng hoà Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bộ trưởng Bộ Nội vụ kư thay”.
Tôi cho rằng đây chỉ là một sự
tính toán, táo bạo và có thể không có hiệu quả
của ông Hồ để có được một vị trí giữa các nước
có quyền quyết định về tương lai của Đông Dương.
Nếu chỉ có Trung Quốc là cường quốc chiếm đóng
duy nhất th́ đó là một triển vọng không thể chấp
nhận được đối với ông. Sự
công nhận của quốc tế, nếu đạt được, sẽ củng cố
cả vai tṛ của phong trào độc lập và địa vị lănh
đạo của cá nhân ông. Có hay không có điều
đó th́ sự mong muốn cho Mỹ tham gia một cách
tích cực vào việc quyết định đường lối chính
sách, sẽ chỉ cốt để cân bằng lại đối với những
mục đích lợi dụng của Trung Quốc, Pháp và Anh.
Điều khá mỉa mai là trong
khi ông công bố một cách thành thực là đă kháng
chiến chống Nhật, th́ lại đúng là nhờ vào sự
cộng tác tích cực của Nhật mà Chính phủ ông mới
hoạt động được. Tỷ dụ như ngay mới đây,
Nhật đă lặng lẽ để lại cho người Việt tất cả bộ
máy cảnh sát dân sự, trừ việc canh gác nhà Ngân
hàng Đông Dương và các hoạt động của Hiến binh
Nhật.
Tôi không muốn chuyển bức điện của ông Hồ mà lại
không có sự thảo luận với ông nên đă t́m gặp ông
vào giữa buổi sáng hôm đó. Cùng với ông, c̣n có
Hoàng Minh Giám(2).
Chúng tôi đi thẳng ngay vào
đề là tôi không thể gửi được bức điện cho Tổng
thống Truman. Đó là
một vấn đề ngoại giao vượt ra ngoài quyền hạn
của tôi. Nhận xét đó
không làm cho ông Hồ bối rối. Với nụ cười
cởi mở thường thấy và lộ thái độ thoải mái, ông
nói ông hoàn toàn thông cảm việc tôi không thể
trực tiếp liên lạc với Nhà Trắng nhưng chắc cũng
có thể gợi ư cho ông cách nào đó để liên lạc với
Truman; điều đó mới thực là quan trọng.
Không đợi tôi kịp trả lời, ông quay sang Giám và
bảo Giám giải thích về nội dung bức điện. Giám
đang chờ, và bằng một thứ tiếng Pháp lưu loát,
nói bức điện có hai mục đích: thứ nhất là tranh
thủ sự có mặt của một người tham dự vô tư, nếu
được Mỹ là tốt nhất, trong các cuộc thương lượng
giữa Trung Quốc và Pháp, v́ họ có thể làm nguy
hại cho nền độc lập và sự toàn vẹn lănh thổ của
Việt Nam, và thứ hai, khuyến khích cho các nước
Đồng minh công nhận Chính phủ Lâm thời của ông
Hồ là đại diện duy nhất và hợp pháp của nhân dân
Việt Nam trong các vấn đề có liên quan đến chủ
quyền của Việt Nam…
Giám giải thích điểm hai c̣n bao gồm việc sắp
đặt cơ cấu tổ chức và vai tṛ của các phái dân
tộc chủ nghĩa khác nhau, một điều quan trọng đối
với ông Hồ, nếu như ông phải cùng với họ nắm một
loại chính quyền hợp pháp nào đó…
Theo Giám lập luận th́ việc Đồng minh công nhận
Chính phủ Lâm thời chậm chừng nào th́ chỉ làm
suy yếu địa vị lănh đạo của họ chừng đó và chỉ
làm lợi cho Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân
Đảng trong việc dựng lên bộ máy cai trị thân
Trung Quốc. Đến đây ông Hồ xen vào nói rằng t́nh
h́nh cấp bách phải làm cho Mỹ dùng ảnh hưởng của
ḿnh đối với Trung Quốc, bắt họ phải chấp nhận
Chính phủ Lâm thời của ông như “một chính phủ đă
tồn tại trước khi bọn bù nh́n thân Quốc dân Đảng
vượt biên giới vào Việt Nam”.
Không công nhận cách lập luận trên, tôi chỉ nhắc
lại chính sách của Mỹ: Mỹ không có kế hoạch can
thiệp vào công việc nội bộ của Đông Dương, bất
kể ở phía người Trung Quốc, người Pháp hay người
Việt và hơn nữa, theo tôi hiểu th́ đại diện duy
nhất Đồng minh phụ trách tiếp nhận đầu hàng ở
miền bắc Đông Dương sẽ là người Trung Quốc. Nhân
viên Mỹ đi cùng đoàn tiếp nhận đầu hàng Trung
Quốc chỉ là những người trước đây đă được phái
tới lực lượng chiến dấu Trung Quốc để làm cố vấn
quân sự, không có nhiệm vụ chính trị và không có
quyền đại diện chính phủ Mỹ trong các công việc
quốc tế.
Tôi nêu ư kiến một cách
thẳng thắn. V́ thật là sai lầm nếu như
dấy lên một hy vọng về việc Mỹ làm trung gian
khi tôi biết rằng điều dó sẽ không thể có. “Ông
già” mẫn cảm hiểu vấn đề và với một thái độ chịu
đựng trang trọng, ông nói ông đánh giá cao và
tôn trọng lập trường của Mỹ. Nhưng nếu tôi làm
ơn chuyển hộ ông bức điện, dù chỉ về Trùng Khánh
thôi, th́ ông cũng
rất sung sướng. Có lẽ cũng
có người nào đó “ở cấp cao” sẽ thông hiểu được
cảnh ngộ của người Việt Nam.
Về sau, coi như là một việc nhân nhượng với họ,
tôi nhận sẽ chuyển điện về cho Đại sứ Hurley,
nhưng cũng nói với ông Hồ rằng tôi sẽ không thể
đoán trước được Đại sứ sẽ có hành động ǵ không.
Trong
thâm tâm tôi, tôi cho rằng nỗ lực đó sẽ không
mang lại kết quả; và thực sự đúng là như vậy.
Tôi cũng
thông báo cho ông Hồ biết Sainteny yêu cầu có
cuộc đàm thoại.
Ông suy nghĩ một lát rồi hỏi
xem mục đích để làm ǵ? Tôi nói chỉ có
thể phỏng đoán là nhằm để bàn về vai tṛ tương
lai của Pháp ở Đông Dương. Ông Hồ nhẹ nhàng đáp
lại là thực tế trong lúc này không c̣n ǵ phải
thảo luận với Sainteny nữa, trừ phi, ông nói
thêm, đó là việc quân đội Pháp trở lại Việt Nam,
và nếu như Sainteny có ư như vậy th́ tốt hơn hết
là nên chờ cho sự việc xảy ra đă rồi hăy gặp
nhau. Ông nói nếu như
Sainteny có điểm ǵ có tính chất xây dựng cần
tŕnh bày trong khuôn khổ một thông báo chính
thức của Paris, th́ ông ta nên gửi cho Chính phủ
Lâm thời xem xét. Rơ ràng là vấn đề đă
kết thúc và tôi không nói ǵ thêm nữa.
Giám rời khỏi pḥng, tôi
cũng xin rút lui nhưng ông Hồ nói tôi ở lại.
Ông mới được tin nhiều quan
chức quan trọng Pháp ở Paris đến Trùng Khánh để
điều đ́nh với Tưởng về vấn đề đặc quyền ngoại
giao ở Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu và Quảng
Châu. Tất nhiên,
những cuộc điều đ́nh đó sẽ không được tiến hành
mà không có ảnh hưởng lớn đến quy chế tương lai
của Việt Nam. Đi sâu thêm, ông Hồ tỏ vẻ
lo ngại về vấn đề quyền sở hữu và quản lư đường
xe lửa Vân Nam phủ đi
từ Hà Nội về Côn Minh và vấn đề khai thác sử
dụng cảng Hải Pḥng. Ông b́nh luận một cách buồn
bă rằng thật là một điều kinh khủng khi thấy ở
Yalta cũng như ở Postdam, các cường quốc Đồng
minh đă quyết định những vấn đề cực kỳ nghiêm
trọng mà không có một sự chiếu cố nhỏ nhặt nhất
đối với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.
Tôi không đồng ư và có một
quan niệm khác. Sự
quan tâm chủ yếu của Tổng thống Roosevelt đối
với vấn đề Đông Dương ở Cairo, Tehéran và Yalta
là số phận tương lai của dân tộc Việt Nam.
Ông đă đề cập một cách hoàn toàn đầy sức thuyết
phục tới vấn đề tự trị cho nhân dân Việt Nam với
Stalin và cả Churchill, cũng như đă nói riêng
với Tưởng, và đă giành được sự ủng hộ hết ḷng
của Stalin và Tưởng. Trong khi bảo vệ sự nghiệp
của Việt Nam, Roosevelt đă bày tỏ một cách minh
bạch là ông chỉ mong muốn chấm dứt chủ nghĩa
thực dân ở Đông Dương ngay cả khi cần phải trả
giá bằng sự bất hoà với Anh, và làm gián đoạn
mối quan hệ Mỹ - Pháp.
Hơn nữa, tôi nói, Tổng thống cũng đă thấy Tưởng
công khai tuyên bố lập trường không can thiệp
của ḿnh, và tôi nhắc cho ông Hồ biết, chỉ trước
đó 4 hôm, Tưởng nói lặp lại lập trường nói trên
và tuyên bố:
“… Tuân theo các điều khoản trong bản hiệp định
của Đồng minh mới đây, ngoài việc phái các lực
lượng tới để tiếp nhận đầu hàng của Nhật trong
vùng bắc vĩ tuyến 16, chúng tôi không có tham
vọng đất đai ở Đông Dương thuộc Pháp. Chúng tôi
mong rằng người Việt Nam sẽ từng bước thực hiện
được nền độc lập của họ qua con đường tụ trị, và
qua đó thực hiện được những điều khoản của Hiến
chương Đại Tây Dương…”(3).
Một lần nữa, lại nổi lên vấn
đề những người Việt Quốc gia vượt qua biên giới
trong gồng gánh của lực lượng chiếm đóng của Lư
Hán. Giáp và tôi đă
thảo luận vấn đề này từ mấy hôm trước và đă kết
luận là có thể dẫn đến những cuộc xung đột
nghiêm trọng. Tôi đă báo cáo cho Tổng
hành dinh Chiến trường và Đại sứ quán khả năng
tiềm tàng có thể nổ ra rối loạn nội bộ, và thậm
chí xung đột vũ trang, nếu như những người Việt
Quốc gia từ Trung Quốc ở về lại có ư định muốn
đánh đổ Chính phủ Lâm thời.
Ông Hồ và tôi nói đến đó th́ Giám trở vào, mang
theo một bức điện.
Ông có tin quân Trung Quốc đă qua biên giới ngày
27-7 ở Cao Bằng và đă tước vũ khí của một phân
đội nhỏ Việt Minh đóng ở Lạng Sơn. Nhưng khoảng
một giờ sau, bộ đội tăng cường của Việt Minh từ
nông thôn kéo đến đă phản công đánh cho quân
Trung Quốc phải rút lui và chịu điều đ́nh để có
đường tự do đi về phía nam.
Người Trung Quốc đă phải yêu cầu Việt Minh thông
qua một tổ chức chính quyền liên hợp ở cấp tỉnh
để đảm bảo duy tŕ pháp luật và trật tự trong
tỉnh. Xem ra th́ biện
pháp cuối cùng có thể được lựa chọn sẽ là một
chính phủ quân quản vĩnh cửu. Nhưng sau
những cuộc thảo luận sôi nổi, mọi người đă nhất
trí thành lập một chính quyền liên hợp cấp tỉnh
gồm 2 đại biểu của Việt Minh, 2 của Phục Quốc và
3 người độc lập.
Ông Hồ lắc đầu phản đối, cho đó là một điều
không thể chấp nhận được: bọn Phục Quốc từ lâu
đă là bù nh́n của Nhật và không thể tin cậy
được. Giám giải thích là Phục Quốc gồm có ba
đảng quốc gia do Nhật đỡ đầu, một trong số đó do
Trần Trọng Kim lănh đạo. Ông
Hồ ngắt lời và nói là Phục Quốc đă được tổ chức
ra từ trước Thế chiến thứ nhất, với sự bảo trợ
của Phan Bội Châu, “một học giả chính trực, một
người quốc gia chân chính” với nhiều hoài băo về
một sự cộng tác Nhật - Việt. Trong thời
niên thiếu,, ông nói,
tôi đă có nghĩ đến việc đi theo phong trào Đông
Du phục vụ cho châu Á của Tiến sĩ Châu. Nhưng
sau này, thấm nhuần một tinh thần độc lập chống
sự đô hộ của ngoại quốc mạnh mẽ, ông đă quyết
định chuyển đi theo
hướng tây - sang Pháp.
Ông Hồ và Giám đưa ra nhiều tài liệu về sự cộng
tác của Phục Quốc với quân xâm lược Nhật và ông
Hồ cũng nhắc lại kinh nghiệm bản thân của ông
với nhóm lưu vong ở Trung Quốc trong vai tṛ của
“những tên đầy tớ trung thành của Quốc dân
Đảng”. Những người cộng tác thù địch này sẽ
chẳng mang lại được ǵ thêm cho chế độ mới và rơ
ràng ở đây chỉ là một việc ông Hồ phải ngậm bồ
ḥn làm ngọt.
Trước khi tôi ra về, ông Hồ
lại nhắc lại sự mong mỏi khẩn thiết của ông là
tôi sẽ báo cáo cho Trùng Khánh tất cả những ǵ
đang xảy ra ở miền Bắc này.
MỘT BỨC ĐIỆN GỬI CHO “ÔNG TAM”
Tôi có dấu vết đầu tiên về việc ông
Hồ có ư định giải quyết vấn đề những người Việt
Quốc gia đă xuất dương qua một bức
thư tôi nhận được
trong ngày hôm sau của Vơ Nguyên Giáp.
Ông yêu cầu tôi trên cơ sở
cảm t́nh cá nhân, chuyển giúp ông một bức điện
cho “ông Tam”. Bức điện tỏ ra vô thưởng
vô phạt và thông thường tôi không cho nó ẩn ư
nào khác.
“Của: Vơ Nguyễn Giáp, tức Văn
Gửi cho: ông Tam, nhờ AGAS chuyển
Việt Minh đă thành lập Chính phủ Cộng hoà Lâm
thời. Nhân danh cá nhân tôi,
mời ông về Hà Nội”.
Nhưng tôi cảnh giác v́ thấy
ông Hồ đă tỏ ra lo lắng trong khi thảo luận về
các đảng phái thân Trung Quốc.
Tôi thoáng có ư nghĩ là Giáp
có thể có ư đồ muốn xoay xở với Việt Minh.
Nhưng tôi đă gạt bỏ ngay ư
nghĩ đó, v́ sự trung thành của Giáp đối với ông
Hồ và Việt Minh là một điều không thể nghi ngờ
được. Nhưng yêu cầu
của Giáp là không b́nh thường. Từ trước,
chỉ có ông Hồ nhờ tôi chuyển điện tín và nội
dung các bức điện bao giờ cũng rơ ràng.
Điều làm tôi thắc mắc là cái “ông Tam” này, ông
Tam duy nhất mà AGAS có liên lạc là Nguyễn Tường
Tam(4), lănh tụ đảng
Đại Việt, thân Nhật, hợp tác với Việt Nam Quốc
dân Đảng, nổi tiếng chống Cộng sản và lại chính
là người mà Sainteny đă bí mật liên lạc thăm ḍ
cách đó khoảng một tháng. Điều làm tôi thắc mắc
là Giáp, vốn là một trợ thủ chủ yếu của ông Hồ,
mà chỉ do sáng kiến cá nhân dám mời lănh tụ của
một đảng đối lập về gặp ở Hà Nội. Có ǵ bảo đảm
cho Giáp là tôi sẽ không thảo luận về bức
thư này với ông Hồ,
mà Giáp th́ cũng chẳng yêu cầu tôi phải giữ bí
mật. Với cách lập luận đó,
tôi cho rằng Giáp đă hành động với sự đồng ư của
ông Hồ và tôi đă chuyển bức điện đi.
Nhưng tôi vẫn phân vân không
hiểu tại sao lại có bức điện này.
Nó có thể sẽ mang lại cho
Việt Minh lợi lộc ǵ? Hay đây là một cái
bẫy chỉ nhằm để bắt cóc hoặc ám sát?
Chắc không phải như vậy.
Việc thủ tiêu Tam sẽ không ngăn trở được mục
đích cuối cùng của Việt Nam Quốc dân Đảng là
nhằm tiêu diệt Việt Minh do Cộng sản lănh đạo.
Có lẽ ông Hồ, một bậc thầy mưu lược, đă suy nghĩ
theo cái kiểu người
Mỹ chúng ta: “nếu anh không đánh được họ, th́
hăy theo họ”. Một chiến thuật mà ông đă từng sử
dụng và thu được ít
nhiều thành công. Qua suy nghĩ, tôi cho rằng ông
Hồ không thể hoà trộn Việt Minh của ông với Quốc
dân Đảng mà có thể chỉ là việc một lănh tụ chủ
chốt trong các đảng chống Cộng sẽ bị lôi kéo
bằng cách mua chuộc, o ép, doạ nạt, hoặc một cái
ǵ đó mà vẫn không từ bỏ đảng ḿnh để đi theo
với Việt Minh… Tôi yêu cầu
Bob Knapp, một chuyên gia về chiến tranh chính
trị của chúng tôi, giúp tôi phân tích t́nh huống
mới này. Chúng tôi bắt đầu từ sự việc ai
cũng đă biết là ông Hồ và Tam đă cộng tác với
Trương Phát Khuê ở Đồng minh Hội trong những năm
1943-1944 và kiểm lại tất cả các t́nh huống mà
chúng tôi đă biết về họ.
Vào mùa hè 1943, qua sự tiếp xúc của OSS với
những người Cộng sản Trung Quốc trong Quốc dân
Đảng, tướng Tiêu Văn đă t́m gặp ông Hồ, lúc đó
là tù chính trị của Trương. Tiêu và ông Hồ đă đi
tới một quan hệ gần gũi nhau về lư tưởng và đến
cuối tháng 7, Trương đă đưa ra một đề nghị xin
thả ông Hồ gửi cho Tổng Bí thư Quốc dân Đảng
Trung Quốc. Đề nghị đó được chấp nhận vào cuối
tháng 8 hoặc đầu tháng 9, với điều kiện ông Hồ
sẽ được giải thoát khỏi bị tù đày, nhưng được
giữ lại dưới quyền kiểm soát của Trương để làm
công tác chính trị trong Việt kiều. Trương yêu
cầu ông Hồ giúp chấn chỉnh tổ chức Đồng minh
Hội, v́ nó đă chẳng có hiệu lực ǵ từ khi thành
lập vào mùa thu 1942 và đang bị xâu xé v́ mâu
thuẫn nội bộ.
Mặc dù có sự tranh chấp giữa Đảng Cộng sản Đông
Dương và Việt Nam Quốc dân Đảng, ông Hồ cũng đă
thành công trong việc làm cho Đồng minh Hội trở
thành một liên minh có hoạt động, đáp ứng được
yêu cầu của Trương về mặt tổ chức, kỷ luật, công
tác t́nh báo. Khi ông Hồ rời Trung Quốc về biên
giới Việt Nam vào tháng 8-1944, ông có khá nhiều
kẻ thù, nhưng đồng thời cũng có nhiều bạn bè
trong số các lănh tụ bất măn của khối chống Cộng
trong Đồng minh Hội. Nguyễn
Tường Tam là một trong số này.
Knapp và tôi đi đến kết luận là khi ông Hồ được
tin quân Lư Hán kéo bọn tay chân cũ trong Đồng
minh Hội đi theo họ, trong số đó đặc biệt có bọn
Việt Nam Quốc dân Đảng đáng căm thù th́ ông đă
dự đoán Trung Quốc có kế hoạch định lật đổ ông
để thay thế bằng một tên bù nh́n thân Trung Quốc
ngoan ngoăn. Nếu quả thực họ có mưu đồ như vậy,
th́ ông Hồ cũng biết rằng chính phủ và lực lượng
quân sự rất hạn chế của ông sẽ không thể đối phó
được với sức mạnh quân sự của Tưởng.
Nhưng c̣n một vấn đề rầy rà khác cho ông Hồ là
việc có thể có hoặc sẽ có một “hoạt động” Trung
- Pháp, nhằm lật đổ ông, tiêu diệt Việt Minh và
trao trả Việt Nam lại cho Pháp.
Chúng tôi có được bản giải thích của cơ quan
nghiên cứu R&A của OSS về lời tuyên bố của Tưởng
ngày 24-8, mà tôi đă có dịp nói đến ít nhiều
trong cuộc gặp gỡ với ông Hồ, và đặc biệt là về
chính sách 14 điểm của Quốc dân Đảng trong việc
chiếm đóng Việt Nam. Chúng tôi đặc biệt lưu ư
đến việc các nhà Trung Quốc học của OSS chúng ta
cho rằng chính phủ Trung Quốc không có ư định
muốn để cho ḿnh bị sa lầy ở Đông Dương. Thái độ
trước đây của Tưởng đối với người Việt Nam đă
được tŕnh bày cho Roosevelt ở Cairo tháng
11-1943, h́nh như vẫn c̣n có giá trị. Lúc đó
Tưởng đă phát biểu là người Việt Nam không phải
là người Trung Quốc, không để bị đồng hoá với xă
hội Trung Quốc và Tưởng không có quyền lợi về
đất đai ở Đông Dương.
Nhưng, lời tuyên bố mới nhất về chính sách của
Trung Quốc lại không chịu ghi nhận phong trào
độc lập của Việt Nam và việc thành lập của một
Chính phủ Việt Minh. Thay vào đó, nó lại công
nhận chủ quyền Pháp đối với Đông Dương và bao
hàm việc Trung Quốc sẽ xúc tiến cộng tác với
Pháp ở tầm cỡ quốc tế để giải quyết vấn đề quyền
lợi Trung - Pháp tại Đông Dương.
Như thế rơ ràng là Hồ Chí Minh và Chính phủ
“thực tế” của ông đă không có một vai tṛ ǵ
trong kế hoạch sau chiến tranh của Quốc dân Đảng
Trung Quốc và sự ủng hộ trước đây của Trương
Phát Khuê đối với những người Quốc gia Việt Nam,
dù cho đă được Trùng Khánh chuẩn y, cũng không
có góp phần ǵ vào trong cái mưu đồ to lớn của
Thống chế - nhằm làm cho Trung Quốc chiếm địa vị
ưu thế trên bàn hội nghị hoà b́nh với nước Pháp.
Giả sử sự phân tích của chúng tôi là đúng đắn,
th́ việc mời Tam, trong khi những người cộng tác
chính trị với ông c̣n đang trên đường đi từ Vân
Nam vào Việt Nam, có nghĩa là ông Hồ đă cố gắng
vận dụng chiến thuật một cách cừ khôi trội hơn
người Trung Quốc… Ông Hồ biết rằng Tam đă không
được Tiêu Văn trọng vọng ở Đồng minh Hội và bị
Vũ Hồng Khanh, lănh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng,
đối xử một cách thậm tệ.
Cũng có khả năng Tam và Đại Việt của ông có thể
bị cắt đứt khỏi Đồng minh Hội. Cũng có
thể ông được ép nhận một Bộ trong Chính phủ mới
và một số ghế nào đó trong Quốc hội cho những
người theo ông.
Hành động đó, nếu thành
công, chắc chắn sẽ mở rộng cơ sở của chính phủ
Việt Minh và đồng thời lại làm suy yếu các đảng
phái đối lập từ Trung Quốc về.
Chú thích
(1) “Xem lịch sử”, J. Sainteny
(2) Lănh tụ đảng Xă hội và là bạn thân của ông
Hồ
(3) Tuyên bố của Tưởng được đăng trên tờ Trung
ương Nhật báo ngày 25-8-1945 ở Côn Minh.
(4) Nguyễn Tường Tam (1910-1963), nhà văn, nhà
báo với bút danh Nhất Linh, đảng viên Việt Nam
Quốc dân Đảng. Đảng này dựa vào Trung Quốc như
một đồng minh để giành độc lập dân tộc, chống
lại sự kiểm soát quốc gia của Pháp. Khi thế lực
của Nhật bắt đầu thống trị Đông Dương (1940),
Tam chuyển sang nhờ sự viện trợ của Nhật để
chống Pháp và lập ra đảng Đại Việt dân chính
(gọi tắt là đảng Đại Việt).
Pháp đă đàn áp và bắt giam các lănh tụ của đảng
này. Tam trốn thoát sang Trung Quốc
(1942) và theo Việt
Nam Quốc dân Đảng của Vũ Hồng Khanh ở Côn Minh.
Đây là “Việt Nam Quốc dân Đảng” thứ hai, mặc dù
Tam không lộ rơ mặt ở Trung Quốc nhưng Tam và
đảng Đại Việt đă được xác định là những người
Quốc gia thân Nhật. Trương Phát Khuê quyết định
bắt giam Tam (1944) để “dạy cho ông một bài
học”. Ngay trước khi họp Đại hội Đồng minh Hội
lần thứ hai (3-1944), Trương thả Tam và mời làm
đại biểu dự Đại hội ở Liễu Châu và ở đó Tam đă
gặp Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn
Đồng. Mùa thu 1945, ông Hồ tranh thủ sự ủng hộ
của Tam và trao cho Tam chức Bộ trưởng Ngoại
giao trong chính phủ Liên hiệp Lâm thời
(1-1946). Khi được mời dẫn đầu đoàn dự Hội nghị
Fontainebleau, Tam đă cáo ốm và cùng với Vũ Hồng
Khanh đă trốn sang Trung Quốc rồi qua Hongkong.
Tháng 2-1947, Tam, Khanh và một số lănh tụ Đồng
Minh Hội khác đă tham gia các hội nghị ở Nam
Kinh và Quảng Châu để lập ra Mặt trận Dân tộc
Thống nhất nằm tranh thủ sự ủng hộ của chính phủ
ông Hồ và thuyết phục Bảo Đại làm người phát
ngôn cho họ. Nhưng họ đă
thất vọng với người Pháp và Bảo Đại đă từ chối
đứng trung gian hai bên Việt Minh và Pháp.
Tháng 10-1947, Tam rút lui khỏi phong trào ủng
hộ Bảo Đại và hoạt động chính trị, nhưng vẫn
tiếp tục viết báo từ hải ngoại chống lại sự can
thiệp của Pháp và Mỹ vào Việt Nam.
Trong cuộc
nổi dậy của Phật giáo 1963, Tam đă tự vẫn
(7-1963) để phản đối sự đàn áp của chế độ Ngô
Đ́nh Diệm.
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures