US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 25
Trước ngày lễ Độc lập
HẾT KHÓ KHĂN NÀY LẠI ĐẾN KHÓ
KHĂN KHÁC
Trong một
thời gian ngắn ngủi 8 ngày, các sự kiện ở Hà
Nội đă phá vỡ các kế hoạch của Đồng minh
nhằm chuyển sang một cách có trật tự từ thời
chiến sang thời b́nh. Một cuộc tiếp
thu đầu hàng về
quân sự theo như thường lệ, không có cảnh
báo trước, sẽ làm nảy sinh một cơn lốc chính
trị có tầm cỡ quốc tế.
Những sự xung đột về quyền lợi của nhiều
nước đă nhanh chóng bùng ra liên tục và đă
đặt ra cho cơ quan OSS chúng tôi nhiệm vụ
phải thỉnh thị, hoà giải hay quyết định.
Tôi cho rằng sự thay đổi trong những diễn
biến t́nh h́nh này là trực tiếp do sự chậm
trễ cố t́nh của Tưởng trong việc thực hiện
nhiệm vụ chiếm đóng của ḿnh. Điều đó đă góp
phần gây ra t́nh trạng hỗn loạn và vô chính
phủ tiếp theo. Nó
đă giúp cho người Nhật có thời gian để
tung ra trận đấu
cuối cùng nhưng vô tích sự để nhằm giành ưu
thế về tư tưởng. Nó đă
cung cấp cho ông Hồ cơ hội để thiết lập cơ
cấu chính trị của ông mà không bị chống đối
từ bên ngoài. C̣n
đối với người Pháp th́ sự chần chừ của Tưởng
chỉ càng làm cho họ dễ bảo hơn nữa trong
cuộc thương lượng của Tưởng với Paris.
Hiến binh Nhật đă tiến hành một chiến dịch
bỉ ổi chống người da trắng trong người Việt
và người Hoa ở Đông Dương, nhằm vào các
cường quốc phương Tây ở châu Á. Người Pháp,
sau khi đă mất hết quyền kiểm soát thuộc địa
cũ của ḿnh, đă rơi vào một t́nh trạng thất
vọng tập thể, chửi bới thậm tệ người Việt
Nam, Trung Quốc và người Mỹ. Những tin đồn
đại về một cuộc chiếm đóng lâu dài của Quốc
dân Đảng đă làm cho dân chúng của ông Hồ và
thực dân Pháp kinh hoàng.
Họ mường tượng ngay đến
những tháng năm đầy áp bức độc đoán, cướp
đoạt, đói khát và chết chóc.
Vị trí của chúng tôi
trong OSS trở thành không thể chịu đựng được
nữa. Quyền hạn
của tôi bị bó hẹp trong các vấn đề quân sự
nhưng phần lớn các sự việc và vấn đề chúng
tôi phải đương đầu thực chất lại là chính
trị. Tôi báo cho
Côn Minh và Trùng Khánh biết rơ t́nh h́nh
phức tạp và rất dễ bùng nổ ở đây nhưng h́nh
như các nhà chức trách quân sự và ngoại giao
đều không quan tâm lắm. Tôi đă đề
nghị với Heppner gặp thảo luận với Đại sứ
Hurley và giục ông phái một viên chức ngoại
giao có thẩm quyền để đến đối phó với cái ḷ
lửa Hà Nội đang sôi sục này, nhưng chỉ dược
đáp lại “chuyển tất cả mọi vấn đề cho các
nhà chức trách đảm nhiệm việc chiếm đóng
ngay sau khi họ tới”.
Thế là hay, nhưng khi nào th́ người Trung
Quốc sẽ tới? Chúng tôi đă biết các
đơn vị tiền trạm đă vượt qua biên giới vào
ngày 27, nhưng không rơ Lư Hán và cơ quan
chính trị của ông ta ở đâu?
Thời gian ông ta đến có
thể đoán chừng là c̣n phụ thuộc vào sự thành
công của Tưởng trong việc vô hiệu hoá được
viên thống đốc Vân Nam và những thắng lợi
trong cuộc thương lượng của Tưởng với Pháp ở
Trùng Khánh và Paris.
Điều đó đ̣i hỏi phải có
thời gian. Trong
khi chờ đợi, chúng tôi làm được ǵ th́ làm
để biểu thị sự có mặt của nhà chức trách
Đồng minh và duy tŕ một cái có vẻ như là
một nền trật tự.
Những yêu cầu khẩn khoản
của tôi về chỉ đạo chính trị và sự giúp đỡ
để đối phó với t́nh h́nh bấp bênh của Hà Nội
đă làm cho Đại sứ quán chúng ta nổi cáu và
bức công hàm của ông Hồ gửi Tổng thống
Truman lại như đổ dầu thêm. Đại sứ
Hurley đă phật ư v́ ông vẫn cho rằng Hồ Chí
Minh và Việt Minh của ông Hồ chỉ là một sụ
mở rộng của “mối đe doạ đỏ ở phương Đông”
của Mao Trạch Đông. Sự bực tức của Đại sứ
lại được bồi thêm bằng những lời kết tội của
Pháp quy cho đại diện Mỹ ở Hà Nội là “chống
Pháp” và có cảm t́nh với “Cộng sản”. Hurley
đă điên lên về việc Heppner ngoan cố không
chịu gọi tôi về Trung Quốc và cho tôi xuống
tàu về Mỹ.
Ở cấp Chiến trường, cơ quan của Wedemeyer đă
chất vấn OSS về các “hoạt động chính trị của
tôi tại Hà Nội”. Sau này (vào tháng 10), Q.
Roosevelt cho tôi hay là Tai Li đă phàn nàn
với đại tá Dickey, thủ trưởng G-2(1) Chiến
trường Trung Quốc, là tôi đă thân thiện quá
với Việt Minh và không hợp tác với nhà đương
cục Trung Quốc.
Ngày thứ bảy 1-9, tôi
nhận được một bức điện khá nghiêm khắc của
Helliwell nhắc nhở tôi rằng hành dinh của
Wedemeyer “rất không bằng ḷng về hoạt động
của OSS ở Đông Dương”. Trong bức điện
có ghi: “ở đây nhận được báo cáo là Patti đă
tổ chức các cuộc gặp gỡ và đứng làm môi giới
cho người Pháp và An Nam”, như thế là trái
với các chỉ thị của Chiến trường và “Chiến
trường muốn bằng bất cứ giá nào, tránh các
hoạt động chính trị nếu các hoạt động đó đặt
Mỹ vào một thế đứng giữa”. Bức điện kết luận
bằng một lời cảnh cáo: “Chúng ta có nguy cơ
nghiêm trọng là cả phân đội có thể bị gọi
về”.
Tôi rất buồn phiền về
thái độ của những người chúng ta ở Trung
Quốc nhưng cũng không có ǵ phải ngạc nhiên.
Tôi biết họ đang phải
chịu áp lực của người Pháp và người Trung
Quốc, nhưng tôi cũng ư thức được trách nhiệm
trong nhiệm vụ của ḿnh. Wedemeyer,
Heppner và Helliwell đều biết rơ một cách
đầy đủ các mệnh lệnh Donovan chỉ thị cho tôi
không được giúp đỡ người Pháp trong mưu đồ
của họ trở lại Đông Dương. Họ cũng đă được
thông báo đầy đủ về việc lựa chọn tôi để đảm
nhiệm công việc này là trên cơ sở tôi thông
suốt các chính sách Mỹ đối với “các dân tộc
lệ thuộc”, như đă nhiều lần nói đến trước
đây. Tôi cảm thấy sâu
sắc rằng chính sách Mỹ đă thay đổi, tôi sẽ
được khuyên nhủ về vấn đề đó và bị gọi về.
Mặc dù các lư do đưa ra
đă được cường điệu lên (một cách khá khéo
léo), tôi vẫn muốn tŕnh bày cho OSS - Trung
Quốc biết rơ sự việc. Tôi điện báo
cho Heppner biết từ khi tôi đến, tôi chỉ
thu xếp có được
một cuộc gặp gỡ giữa Sainteny và Giáp, và đó
là một cuộc gặp gỡ do Sainteny yêu cầu.
Không hề có vấn đề làm môi giới chính trị,
tuy rằng gần như ngày nào chúng tôi cũng
phải can thiệp với các nhà chức trách địa
phương về việc đảm bảo
an ninh cho người Âu, nhất là đối với
người Pháp. Trong nhiều trường hợp chúng tôi
đă phải thay mặt người Pháp xin giùm cho một
số tay sai đi
khiêu khích bị bắt quả tang.
Tôi cũng nhắc lại cho Côn Minh những điều mà
tôi đă nêu ra trước đây…
Tôi đă yêu cầu Chiến trường và AGAS, ngay từ
khi tôi mới tới, cho một nhân viên chuyên
môn để phụ trách vấn đề tù binh chiến tranh
và để tôi chuyển về công tác của OSS.
Một tổ công tác nhỏ dưới quyền đại tá
Norlinger(2) đă
được đưa tới ngày 28-8. Nhưng thực không
may, Norlinger cũng chẳng có ǵ thành công
hơn tôi trong công tác đối với người Nhật về
vấn đề tù binh.
Chỉ ít lâu sau,
Narlinger và toán của ông cũng bị lôi cuốn
vào các vấn đề chính trị Pháp - Việt.
Norlinger thông thạo
tiếng Pháp và là người thân Pháp trong Thế
chiến thứ nhất nên đă dễ dàng trở thành một
mục tiêu cho Pháp làm áp lực để giải thoát
các tù binh người Pháp ra khỏi Thành.
Người Pháp đă nắm lấy những “người Mỹ mới”,
thuyết phục Norlinger rằng cộng đồng thường
dân Pháp tại Hà Nội đang bị bọn Cộng sản
Việt Nam “đe doạ giết” và chỉ có việc thả
các tù binh Pháp ra để tổ chức một “lực
lượng bảo vệ chống lại cuộc tấn công của
người An Nam” th́ mới có thể cứu được họ.
Tất nhiên, luận điệu đó
chỉ là một thứ cặn nước rửa bát dể cho lợn.
Chính phủ Lâm thời đă đảm bảo với tôi rằng
sẽ tránh dùng bạo lực đối với người Pháp
bằng mọi cách, do đó không có lư do ǵ để mà
hốt hoảng, mặc dù có những sự khiêu khích
của người Pháp.
Tôi thảo luận với Norlinger về cái thế cân
bằng mong manh về chính trị, trên cơ sở đó
người Nhật và Chính phủ Việt Nam mới đang
duy tŕ một nền trật tự công cộng hết sức
bấp bênh; và tôi đă mạnh mẽ nhắc nhở ông
đừng để mắc mưu vào các vấn đề chính trị.
Ông đồng ư t́nh h́nh có
độ nhạy cao và rất dễ dàng bùng nổ, nhưng
tôi lại thấy ở ông một cảm t́nh ngầm cho
những “người Pháp - các đồng minh cũ của
chúng ta đang bị đàn áp”.
Những người Pháp có quan
hệ với ông cũng cảm nhận được điều đó và họ
đă khai thác đến cùng, để cho người Mỹ phải
trả giá. Trước
mắt, người Pháp và người Trung Quốc đang
chống đối lại phái đoàn OSS th́ nhóm của
Norlinger đă trở thành một lực lượng thứ ba
trong vấn đề gây rối. Họ đă không hài
ḷng về những điều hạn chế của tôi đối với
các hoạt động thân Pháp chống Việt Minh của
họ và trong những tháng sau khi tôi c̣n đang
phụ trách phái đoàn OSS, th́ những thủ đoạn
chia rẽ của họ mặc dù có động cơ tốt, chính
là nguồn gốc của nhiều sự trao đổi chẳng hay
ho ǵ giữa Hà Nội và Côn Minh.
MỘT NHĂN HIỆU
ĐẶC BIỆT CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Sáng thứ bảy đó, tôi và Grélecki
đi một ṿng thành phố. Hôm sau, 2
tháng 9 là ngày lễ lớn, Ngày Độc lập, khắp
nơi tưng bừng
không khí ngày hội. Ai
cũng bận rộn, hớn hở, và vội vàng nhưng
không ai tỏ ra hấp tấp.
Trước cửa nhà, trên ban
công, ngoài cổng ra vào đầy các loại cờ đỏ
hoa, đèn. Nhiều toán người hăm hở
giăng lên ngang trên đường phố, những khẩu
hiệu hô hào “Độc lập và Tự do cho Việt Nam”,
và hoan nghênh Đồng minh, đặc biệt là Mỹ.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại phải dừng xe
nhường đường cho một toán
Scout(3), một đội
nữ du kích hoặc một đơn vị vũ trang vượt
qua. Giữa một vườn hoa
nhỏ, một đội quân nhạc đang biểu diễn.
Người Việt Nam hướng dẫn chúng tôi giải
thích một cách trịnh trọng: “Ngày mai Chính
phủ mới sẽ ra mắt dân chúng và chế độ của
người Pháp đă bị băi bỏ”.
Tôi hỏi ai sẽ cầm đầu
Chính phủ mới, và anh ta trả lời ngay “Hồ
Chí Minh”. Anh ta
chưa hề trông thấy ông Hồ, mà cả ảnh cũng
không. Anh cũng chẳng rơ ông ở đâu
về, ngoài việc chỉ được nghe nói Hồ Chí Minh
đă “ở ngoại quốc lâu năm” nhưng cũng không
rơ ở đâu, Tôi hỏi anh ta có biết ǵ về xu
hướng chính trị của ông Hồ. “Ồ, có chứ, ông
Hồ là Việt Minh, một đảng của nhân dân”.
Có biết Việt Minh là
Cộng sản không?
Người hướng dẫn tỏ vẻ lúng túng rồi thú thật
rằng anh ta thực sự không hiểu tôi muốn nói
ǵ về Cộng sản.
Tôi không tiếp tục câu chuyện nhưng cũng
nhận thấy ngay được rằng khi nói đến Hồ Chí
Minh, giọng anh ta đượm vẻ tự hào cứ như ông
Hồ là một người thân thuộc trong gia đ́nh
ḿnh vậy. Tôi đă
gặp hiện tượng này nhiều lần trong các tuần
lễ sống ở Hà Nội.
Trong buổi sáng, tôi cũng có dịp nói chuyện
với một số thương gia. Nói
chung, họ tỏ ra
vui mừng trước triển vọng một Chính phủ gồm
toàn người Việt, nhưng một số cũng tỏ ra vô
thưởng vô phạt, c̣n một số ít th́ hoài nghi
không biết rồi sẽ có ǵ khác trước nhiều
không. Tôi cũng thường
gợi hỏi xem họ hiểu về Việt Minh và Cộng sản
thế nào. Nhưng
chỉ có ba hoặc bốn người có thể trả lời, các
câu trả lời của họ rất lộn xộn, từ “không
tốt” đến “tuyệt vời”, “bây giờ th́ nhân dân
sẽ chăm lo mọi việc”.
Trong chiến tranh tôi đă
sống với những người kháng chiến Pháp và Ư
(trong đó có nhiều người Cộng sản).
Giống như người Pháp,
người Ư có ít nhiều không giống với các dân
tộc khác về động cơ chính trị.
Cả hai dân tộc đă đấu
tranh để lật đổ một khái niệm tư tưởng mà
Hitler và Mussolini đă đặt lên đầu họ, ngoài
ra không có ǵ khác hơn.
Khi đă đạt được mục đích
đó, cả hai nước lại chuẩn bị để quay trở lại
nguyên t́nh trạng cũ, chỉ không có khái niệm
về chủ nghĩa quốc xă hoặc phát xít mà thôi.
Tôi thấy phải chờ đợi
một t́nh huống hoàn toàn khác ở Việt Nam.
Người Việt Nam sẽ không
thoả măn chỉ với sự đánh bại chế độ phát xít
của Vichy và Tokyo.
Họ không muốn quay trở
lại t́nh trạng trước chiến tranh của họ.
Họ muốn có thay đổi.
Họ muốn đ̣i lại đất nước họ và làm cho nó tự
do và độc lập đối với sự đô hộ của bên
ngoài. Đó cũng chính là
điều tôi đă thấu hiểu được từ các nhà hoạt
động chính trị trong 6 tháng trước đây ở
Trung Quốc.
Nhưng sáng nay tôi đă không bắt gặp cái động
cơ chính trị đó trong những người dân mà tôi
có dịp nói chuyện. Họ đă
cũng không phải là người Việt Nam mà mới chỉ
hai tuần lễ trước đây đă khuấy động Hà Nội
lên để chiếm lấy chính quyền.
Không, đây chỉ là những
người dân ngụ ở thành thị, số dân đô thị đă
được liên kết vào cộng đồng người Pháp, đă
quen với sự giàu có và lối sống đầy đủ tiện
nghi. Từ những
câu trả lời rối rắm của họ, tôi kết luận họ
không phản đối thay đổi. Đúng là họ
đă không được thực là sung sướng với người
Pháp hoặc các chúa tể Nhật, v́ dù sao th́ đó
cũng vẫn là người ngoại quốc và không thể
tin cậy được. Họ cảm thấy dễ chịu hơn với
những người đồng chủng của họ, dù cho nhưng
người đó là quan lại hay “chức dịch”, miễn
họ là người Việt Nam. Nhưng rơ ràng là số
dân chúng thực sự muốn có thay đổi không
phải là trong giai cấp tư sản ở Hà Nội.
Tôi nhớ lại điều ông Hồ đă nói với tôi hồi
tháng 4 tại một gian buồng nhỏ ở biên giới
Trung Quốc: Việt Nam là một nước nông
nghiệp, 90% dân chúng sống nhờ vào ruộng
đất, họ đă bị một chế độ phong kiến và quan
lại đàn áp bóc lột dă man như đối với những
người nô lệ; do đó, giống như các nước
phương Đông, sự thay đổi kinh tế - xă hội ở
Việt Nam phải do nông dân khởi xướng và được
sự ủng hộ của công nhân.
Nhưng muốn thắng lợi, phải có sự ủng hộ hoàn
toàn của nông dân.
Trên đường về biệt thự Gauthier, ngẫm nghĩ
về điều ông Hồ nói, cuối cùng tôi đă hiểu
sâu sắc rằng: quần chúng tiến hành cuộc cách
mạng là từ ở miền thôn quê, các làng xóm và
rừng núi - họ là nông dân.
Một vị khách đă đợi tôi
tại biệt thự. Đó là ông
Bửu(4), một người
Việt Nam dáng ưu tú, có thể khoảng gần 30.
Tôi nhớ h́nh như đă
trông thấy ông ở đâu nhưng không chắc chắn.
Tôi và Bernique bắt tay
và ông tự giới thiệu là do “Bộ Nội vụ cử
tới”, nhưng phát âm tiếng Anh hoàn hảo và
giọng Oxford không che lẫn được của ông làm
tôi sửng sốt, ngạc nhiên. Ông đưa cho tôi
một thư viết tay
trên hai mặt tấm danh thiếp của Giáp: Bộ
trưởng Bộ nội vụ gửi lời chào v.v… Ông Bửu
là đại diện cho cá nhân Bộ
trưởng(5) và mong
rằng phái đoàn sẽ làm dễ dàng cho công việc
của ông.
Bửu nói mục đích cuộc đến
thăm là để báo cho tôi biết một “t́nh h́nh
nguy hiểm” đang làm cho Hồ Chủ tịch rất
không yên tâm. Đó là
việc phải đối phó với các hoạt động bí mật
của Pháp được điều khiển từ Calcutta.
Tôi đă tóm tắt câu chuyện của ông trong bản
báo cáo gửi Côn Minh.
“Đă nhận được nhiều báo
cáo của Việt Minh tại chỗ nói rằng nhiều
nhân viên của Pháp đă được thả dù xuống
nhiều nơi và đă bị Việt Minh bắt giữ coi như
tù binh chiến tranh. Người mới nhất,
đại uư Dupré Louis, có mang theo mệnh lệnh
do De Raymond kư thay cho tướng De Gaulle,
nói rằng người cầm mệnh lệnh được Chính phủ
Cộng hoà Lâm thời Pháp uỷ nhiệm hoạt động ở
Đông Dương, chỉ thị cho các nhà chức trách
dân sự và quân sự hết sức giúp đỡ… và yêu
cầu tất cả người thuộc Nhóm Kháng chiến nội
địa của Pháp mà chưa bắt được liên lạc với
một phái đoàn nào khác, th́ phải tự đặt ḿnh
dưới quyền điều khiển của ông ta và phải
tuyệt đối tuân theo chỉ thị của ông…
Nhiệm vụ là chiếm lấy
tất cả các dinh thự và công sở dân sự cũng
như quân sự, cả của tư nhân nếu cần.
Ông sẽ thay mặt Chính
phủ Cộng hoà Lâm thời Pháp để giải quyết mọi
vấn đề dân sự, hành chính và quân sự trong
ṿng được uỷ nhiệm.
Tất nhiên, ông ta sẽ từ
bỏ chức trách của ḿnh ngay sau khi có các
đại diện chính thức có thẩm quyền của Pháp
tới”.
Bửu hỏi xem tôi có được
báo cho biết về các hoạt động này của Pháp
không và cần giải thích cho ông rơ về ư đồ
của người Pháp. Tất nhiên là tôi có
biết ư đồ của người Pháp mặc dù không được
báo riêng cho biết về kế hoạch cụ thể của họ
và tôi đă bảo thẳng Bửu là đă có nhiều quan
chức cai trị dân sự được phái tới Việt Nam
trong thời gian phái đoàn chúng tôi tới Hà
Nội. Tôi giải thích thêm, dựa vào kinh
nghiệm trước đây ở châu Âu, người Pháp đă
cho xúc tiến một thời kỳ quân dân quản trong
các vùng mới được giải phóng và các toán
được thả dù xuống Việt Nam h́nh như đúng là
những nhân viên cai trị để nhằm thực hiện
công việc đó. Tôi nói thêm là đă hỏi Giáp
chung quanh vấn
đề Messmer nhưng Bửu trả lời không biết ǵ.
(Giáp cũng đă không trả
lời ǵ khác).
Qua việc cử Bửu tới, Giáp cũng ngầm cho biết
Việt Minh đă ở khắp mọi nơi, nắm được chính
xác tất cả những ǵ xảy ra ở Việt Nam, và
Chính phủ Lâm thời sẽ không ngồi yên một
cách vô tích sự trong khi người Pháp âm mưu
quay trở lại bằng vũ lực.
Tôi cảm ơn Bửu đă thông
báo tin tức nhưng cũng không để lộ ra tôi sẽ
có làm ǵ hay không.
Bửu cũng chẳng hỏi tôi
xem có hành động ǵ không, nhưng cho rằng
(rất đúng) tôi sẽ báo cho Trùng Khánh.
Thực là không may, câu chuyện của Bửu đă
chẳng mang lại được điều ǵ để làm yên ḷng
cho Sainteny. Tôi cũng
chẳng rơ được các toán người Pháp ở đâu và
hoàn cảnh của họ bị bắt giữ như thế nào.
Ông Hồ mời Gréleki và
tôi đến dự bữa cơm chiều trước ngày Độc lập.
Đúng 4 giờ 30, lần đầu
tiên chúng tôi vào cổng cuốn Bắc Bộ phủ,
trước đây là dinh của Thống sứ Pháp.
Người gác chào một cách
lịch sự và một sĩ quan trẻ tuổi dẫn chúng
tôi đến một pḥng trên tầng hai. Một
pḥng rộng, thanh nhă nhưng bày biện đơn sơ,
chỉ có một đi văng, một số ghế thông thường
và một bàn trà. Rơ ràng trái ngược với nhũng
pḥng choáng lộn của Sainteny ở dinh Toàn
quyền.
Chủ tịch Hồ, có Giám và
Giáp bên cạnh, ra đón chúng tôi một cách sốt
sắng như là đă lâu lắm không gặp nhau.
V́ rằng chúng tôi chính đă họp với nhau chỉ
2 ngày trước đây trong một ngôi nhà cũ ở phố
Hàng Ngang, nhưng đây mới thật là lần đầu
tiên gặp nhau trong khung cảnh chính thức.
Ông Hồ giới thiệu với tôi những người có mặt
khác(6) rồi cũng
đi sang pḥng bên cạnh, ở đó đă có bày sẵn
bàn ăn. Tôi ngồi bên
phải ông Hồ, c̣n Grélecki ở bên trái.
Giám ở bên phải tôi và
Giáp bên trái Grélecki, đối diện vối tôi.
Các món ăn, như thường lệ, cũng giản đơn,
ngon và theo kiểu
Việt Nam.
Người ta thấy ngay, đây
cũng là một dịp mang nhiều ngụ ư chính trị.
Ông Hồ mở đầu câu chuyện và nói rằng cuộc đi
thăm phố phường của tôi buổi sáng đă gây ra
một sự “xôn xao nho nhỏ”.
Dân chúng đă vui sướng
khi thấy tôi quan tâm đến công việc chuẩn bị
của họ cho buổi lễ ngày mai và ông cũng muốn
được nghe tôi nói về đdiều đó.
Tôi có thoả măn về những
điều đă được nghe và thấy không?
Ông tỏ ra ṭ ṃ và quan
tâm một cách nghiêm chỉnh. Không phải
ông không biết những điều đă được phát biểu
ra đâu, v́ trong số những người ṭ ṃ ở dọc
đường nhất định có nhân viên cảnh sát và
chắc rằng họ đă báo cáo lại mọi câu chuyện
đă nói. Nhưng chính là
ông muốn thấy phản ứng cá nhân của tôi v́
ông biết rằnng những phản ứng đó sẽ được
phản ảnh trong báo cáo của tôi gửi về Trung
Quốc. Để tránh
khỏi dính líu vào các vấn đề chính trị và tư
tưởng, tôi phát biểu đă có ấn tượng mạnh mẽ
đối với công tác chuẩn bị cho ngày lễ và sự
cởi mở của dân chúng mà tôi đă bắt chuyện.
Tôi ca tụng tài tổ chúc
của nhũng người điều khiển các hoạt động
ngày hôm sau và sự hân hoan của quần chúng
trong việc thực hiện các nhiệm vụ của họ.
Các vị khách tỏ ra hài ḷng và Giám đă phấn
khởi nói xen vào là mặc dù quỹ để tổ chức
buổi lễ do Thành phố đài thọ, nhưng hiện nay
th́ chính bản thân nhân dân đă bỏ tiền ra
thanh toán các chi phí để sửa sang, làm sạch
và trang trí cho thành phố.
Ông nói thêm là không
phải sử dụng đến các quỹ của Chính phủ và
thực ra th́ Chính phủ cũng chẳng có.
Ngân hàng Đông Dương và các ngân hàng phụ
thuộc vẫn c̣n nằm trong
tay người Nhật và Chính phủ Lâm thời
cũng chẳng có cách nào để có được tiền.
Tôi hỏi xem có chuẩn bị
diễu binh không.
Với một giọng chán ngán, Giáp trả lời cũng
muốn có một số đơn vị đi diễu hành, nhưng bộ
đội “vừa mới ở rừng về” không có đủ thời
gian luyện tập, nên đành phải bằng ḷng với
những đơn vị “sắp hàng đứng tại chỗ” vậy.
Ông Hồ ngắt lời và nói điều đó không hề ǵ,
bộ đội sẽ đến đó để cho dân chúng xem, và
“quân đội nhân dân” cũng có thể xem Chính
phủ của họ mới được thành lập.
Chúng tôi trở lại gian
pḥng lớn để dùng trà.
Trừ ông Hồ, Giáp, và
Giám, c̣n những người Việt khác đều rút lui,
có thể phải đi chuẩn bị cho ngày mai.
Năm người chúng tôi quay
quần lại chung quanh bàn trà trong khi ông
Hồ rót cà phê nóng của Pháp vào trong những
tách nhỏ Trung Quốc xinh xắn. Với một
giọng thân mật, ông phát biểu mời chúng tôi
dự bữa cơm trước ngày lễ Độc lập của Việt
Nam, để tỏ ḷng biết ơn của cá nhân ông và
các đồng sự của ông trong Chính phủ đối với
Mỹ về sự ủng hộ vật chất và tinh thần mà
phong trào của ông đă nhận được trong những
năm gần đây. Ông đặc biệt cảm ơn OSS(7), về
sự cộng tác từ năm 1943 và mong rằng tinh
thần “hợp tác hữu ái” đó sẽ tiếp tục phát
triển trong những năm tới. Nhớ lại sự cộng
tác trước đây của ông với người Mỹ ở Trung
Quốc và sau này tại vùng núi rừng Bắc Kư,
ông đă nhắc tới tướng Chennault, đại tá
Helliwell, tới Glass với những lời lẽ đầy
nhiệt t́nh, và tới cả các “bạn chiến đấu”
của ông, các thiếu tá Thomas và Holland cùng
với những người khác trong các toán của họ.
Trong một lúc dừng chuyện tṛ, Giám nhận xét
rằng qua Hội nghị San
Francisco( 8 ) của Liên Hợp Quốc,
người ta có thể rút ra kết luận là Mỹ đă
không hiểu thấu một cách đầy đủ về cảnh ngộ
của người Việt Nam. Ông tự hỏi không hiểu
tại sao vấn đề “thực sự” của Đông Dương lại
không được nêu lên, ngoại trừ trong những
lời lẽ nói về vai tṛ của Pháp như là một
cường quốc thực dân. Chẳng phải rơ ràng là
người Việt Nam cũng rất thiết tha với cái mà
người Mỹ đă đấu tranh cho công cuộc cách
mạng của họ, “giải phóng khỏi ách áp bức của
ngoại quốc và giành độc lập dân tộc đó
sao?”, người Mỹ “từ năm 1776 đă mở đường cho
thế giói bước vào một kỷ nguyên độc lập dân
tộc”, hơn ai hết, cần phải đánh giá được cái
điều mà người Việt Nam đang ra sức làm cho
bản thân ḿnh. Và, chắc là để nhắc nhở tôi,
ông nói thêm rằng, “ngay cả nước Ư” năm 1848
cũng đă học tập một trang lịch sử của Mỹ.
Trong khi ông Hồ gật đầu tỏ vẻ bằng ḷng,
c̣n Giáp vẫn ngồi phớt lạnh th́ Giám làm một
tràng phê phán các tội lỗi xấu xa của người
Pháp. Người Pháp đă cho họ là những “người
cách mạng” và “dân An Nam vô ơn bạc nghĩa”.
Đúng, họ là những “người cách mạng”!
Họ đă nổi dậy chống thực
dân Pháp, các chúa tể ngoại quốc bóc lột họ.
C̣n “vô ơn”, th́ họ đă chịu những
ân huệ ǵ? Phải
chăng là quyền ưu đăi được làm
lao động khổ sai,
làm những con đường đẹp đẽ dẫn đến các dinh
thự nguy nga, những đồn điền trù phú của
người Pháp…
Giáp không thể ḱm chế được nữa và nói xen
vào là Pháp đă xây dựng nhiều nhà tù hơn
trường học, nhiều trại lính hơn nhà ở cho
dân… Tất nhiên Pháp cũng
lập ra một số trường tốt cho một số ít người
Việt Nam được ưu đăi, nhưng chỉ nhằm phục vụ
cho lợi ích thực dân của họ. Nếu có
người muốn ra nước ngoài du học, họ cũng
không được tự do, ngay cả sang Pháp.
Điều nhận xét trên gợi cho tôi cảm thấy h́nh
như ông quá gay gắt và tôi có phần dè dặt
trong việc nhận định chính ông cũng đă được
sự giáo dục của Pháp, giống như Giám, Phạm
Văn Đồng, Tạ Quang Bửu và nhiều người khác
nữa; họ đều là sản phẩm của hệ thống giáo
dục Pháp. Làm sao có thể dung hoà được điều
đó với những lời kết tội của ông đối với
Pháp trong lĩnh vực giáo dục? Giáp thừa nhận
có ngoại lệ và nói rằng một vài người trong
số cộng sự của ông xuất thân từ những tầng
lớp giàu sang, nhưng phần lớn th́ không phải
thế. Số đông này thường phải chịu đựng những
điều sỉ nhục tàn tệ và sự phân biệt đối xử
trong học tập…
Ông Hồ
nói chắc chắn là tôi đă rất thông thạo về
chế độ thuộc địa của Pháp nên cũng không cần
bàn luận về dĩ văng làm ǵ, và tốt hơn hết
là nên nh́n vào tương lai.
Ông nói ư nghĩ của ḿnh về những tháng sắp
tới sẽ có tính chất quyết định cho Việt Nam,
v́ vậy người Việt Nam có nhiệm vụ phải biểu
thị cho các nước Đồng minh biết ḷng tin
tưởng sắt đá và quyết tâm không ǵ lay
chuyển nổi để tự giải thoát ḿnh khỏi “mọi
sự cai trị của bên ngoài dù cho đó là người
Pháp, Nhật, Trung Quốc hay bất kỳ ai”, và
nhân dân Việt Nam đă đạt tới một “tŕnh độ
trung thành về chính trị” cho phép họ có
quyền được quản lư lấy ḿnh. Ông Hồ luôn
luôn nhắc tới “14 điểm” của Wilson và Hiến
chương Đại Tây Dương, và ông trích dẫn lời
hứa hẹn riêng cho Việt Nam của Mỹ.
Tiếp đó, ông nêu lên những lời đặt điều xung
quanh vấn đề xu hướng chính trị của ông, và
tôi chăm chú nghe. Ông nói có được biết
nhiều về những lời buộc tội của Pháp, Anh,
Trung Quốc cho ông là một “tay sai Xô viết”
và Việt Minh là sự bành trướng của “bộ máy
Moskva ở Đông Nam Á”.
Nhưng Mỹ, dưới “sự lănh đạo sáng suốt của
Tổng thống Roosevelt vĩ đại”, đă công nhận
quyền của tất cả các đảng phái được cùng tồn
tại sẽ không bận tâm ǵ về cái nhăn hiệu
Cộng sản được người ra gắn cho phong trào
của ông. Ông Hồ
giữ vững quan điểm là trong lúc đặc biệt
này, Việt Minh là một “phong trào dân tộc,
bao gồm một cách dân chủ tất cả các đảng
phái cách mạng Việt Nam”.
Tất nhiên, ông công
nhận, Đảng Cộng sản Đông Dương là một nhân
tố lănh đạo trong phong trào giành độc lập
dân tộc, nhưng các đảng viên của họ “trước
hết phải là người dân tộc chủ nghĩa, sau đó
mới là đảng viên của đảng”.
Giáp, thường khó mà im lặng được lâu, đă
phát biểu một điều khá bất ngờ “Việt Minh đă
làm theo kỹ thuật và chiến thuật tổ chúc của
Cộng sản để lập ra các đảng chính trị khác
nhau nhằm đấu tranh cho một nền độc lập
trong một trật tự xă hội giống như chủ nghĩa
Cộng sản, nhưng không phải v́ thế mà nó có ư
định thay thế một cường quốc bên ngoài khác
vào chỗ của người Pháp của Việt Nam”.
Tôi đă có ư muốn hỏi
ngay xem ông có ư gồm Liên Xô vào lúc đó
không, nhưng cảm thấy khiếm nhă và vô vị,
nên thôi. Giáp
không phải chỉ là một người Cộng sản mà c̣n
là một người Việt Nam trung thực và thẳng
thắn.
Ông Hồ tiếp tục nói, riêng ông muốn Mỹ biết
các yêu cầu của ông cho nhân dân Việt Nam
rất “nhỏ nhặt và giản đơn”. Họ muốn có một
nền “độc lập hạn chế”, không có sự
cai trị của Pháp,
có quyền sống tự do trong gia đ́nh các nước.
Ở đây có một sự thay đổi
trong đường lối cứng rắn của đảng.
Việc ông Hồ nói tới một nền độc lập “hạn
chế” chứ không phải hoàn toàn, gợi cho thấy
trong suy nghĩ của ông có điều nghi ngờ
không biết có thể đạt được mục tiêu cuối
cùng ngay trong ṿng đầu này không.
Có thể ông cũng đang
muốn thoả hiệp với người Pháp, hay cũng có
khả năng với người Trung Quốc.
Tôi phân vân và chỉ biết
nghe.
Ông Hồ nói tiếp, dân chúng Việt Nam khao
khát được đi tham quan các nước ngoài, “đặc
biệt là sang Mỹ, như tôi đă làm từ lâu”. Họ
mong đợi đến ngày mà nước Pháp không c̣n chỉ
là nơi duy nhất để học tập, ngày mà học vấn
không chỉ hạn chế trong một số người được ưu
đăi, ngày mà các sinh viên cũng có thể tới
học tập tại nước Mỹ.
Ông Hồ muốn được các chuyên gia kỹ thuật Mỹ
giúp thiết lập một số công nghiệp mà Việt
Nam có khả năng đảm đương được.
Thấy Giám muốn nói, ông
Hồ dừng lại. Theo quan điểm của Giám
th́ Việt Nam cần và muốn trước hết là quyền
tự do buôn bán, các cảng tự do, và vốn của
nước ngoài - ngay cả vốn của Pháp, mặc dù
ông không tin rằng Pháp có khả năng cung cấp
được. Theo ư kiến ông, điều mong muốn trước
hết là vốn của Mỹ và việc buôn bán với Mỹ,
và khi Việt Nam đă có diều kiện, sẽ mở mang
các sân bay và bến tàu để có thể tiếp nhận
hàng hoá của Mỹ một cách điều hoà(9).
Giám tiếp tục nói dài về
vấn đề này, về tương lai của Việt Nam.
Ông Hồ nêu ngay lên một
vấn đề hết sức cấp bách, t́nh h́nh nguy ngập
về lương thực.
Ông nói về nạn đói khủng khiếp năm 1944.
T́nh h́nh lương thực năm
nay cũng không khá hơn v́ mưa lớn và lụt
lội. Thực tế th́ số thóc dự trữ để
làm giống cho vụ sau cũng đă mang ra
ăn hết.
T́nh h́nh lương thực
“vào đúng lúc này đă cực kỳ nguy hiểm”.
Nếu như quân chiếm đóng
Trung Quốc định tiếp tế bằng thị trường địa
phương tại chỗ, th́ “mọi người sẽ chết đói”.
Những báo cáo mới nhất
từ phía bắc gửi về cho ông Hồ đă chỉ ra rằng
quân đội Vân Nam “vô kỷ luật và không ai
kiểm soát được”.
Và ông Hồ e rằng họ tiến về Hà Nội và Huế
th́ t́nh h́nh lương thực ở đó đă khó khăn sẽ
trở thành không sao chịu nổi. Do đó
ông nói tôi cần phải kêu gọi sự chú ư của
Chính phủ Mỹ cho tiến hành kiểm tra đối với
quân chiếm đóng Trung Quốc và yêu cầu người
Trung Quốc mua bán chứ đừng trưng thu các
vật phẩm và lương thực trong thời gian họ
chiếm đóng “để tránh gây ra” t́nh h́nh người
Việt Nam bắt buộc phải tiến hành chiến tranh
đối với người Trung Quốc để bảo vệ cuộc sống
và gia đ́nh họ. Tôi đồng
ư chuyển lời yêu cầu của ông.
Đến 7 giờ 30, chúng tôi
cho là đă đến lúc phải cáo lui v́ ngày hôm
sau là một ngày nặng nhọc.
Ở cầu thang, Giáp nói
riêng với tôi về những mưu toan xâm nhập của
Pháp bằng cách thả dù một số “viên chức cao
cấp”. Tôi hỏi có
phải những người mà Bửu đă nói với tôi hôm
trước không.
“Phải”, ông trả lời và nói thêm là cũng có
những người khác nữa.
Ông nhắc tới “thiếu tá
Messmer từ Calcutta tới” cùng với 2 nhân
viên khác thuộc toán của ông.
Đến thứ hai, Bửu sẽ mang
tới cho tôi một bản báo cáo đầy đủ.
Giáp lắc đầu và b́nh: “Không biết đến bao
giờ họ mới hiểu được rằng họ không được hoan
nghênh ở Việt Nam, trong t́nh huống hiện
nay?”.
Chú thích
(1) Ban t́nh báo
(2) S.L. Norlinger, đại tá, thuộc G-5, Bộ
tham mưu chiến trường, cầm đầu đơn vị cứu tế
xă hội đối với tù b́nh Đồng minh ở Hà Nội.
(3) Hướng đạo sinh
(4) tức Tạ Quang Bửu, một nhà chính trị độc
lập
(5) tức Vơ Nguyên Giáp
(6) Tôi không nhớ được tên 3 trong 4 người
đă đến.
(7) tức muốn nói về những cố gắng của OSS
Trùng Khánh trong những năm 1943-1944 để xin
thả ông ra khỏi nhà tù của Trương Phát Khuê
( 8 ) tức Hội nghị Liên Hợp Quốc từ 25-4 đến
26-6-1945.
(9) Câu chuyện được các nhà viết sử
(Devillers, B. Fall…) nhắc lại nhiều lần là
cả ông Hồ và tôi đă thảo luận về các nhân
nhượng kinh tế sau chiến tranh hoặc sự điều
đ́nh để đồi lấy việc Mỹ bào đảm nền độc lập
của Việt Nam và những câu chuyện đồn đại ra
ngoài phạm vi của vấn đề, đều là bịa đặt do
các nhà văn Pháp đặt ra, giống như bài của
Dessinger đăng trong Le Monde ngày
14-4-1947.
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures