US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 28
Đi t́m
chính sách của Truman
TÂM TRẠNG LO ÂU Ở
TRUNG QUỐC
Đến tuần đầu
tháng 9 là sự tưng
bừng vui vẻ, phấn khởi v́ chiến thắng ở Côn Minh
đă phải nhường bước cho một bầu không khí đầy lo
âu, nghi kị và mưu đồ đen tối. Người Trung Quốc,
người Pháp và người Mỹ đều thất vọng, chán nản
và ở trong một trạng thái bực dọc. Nếu Đông
Dương là một ḷ lửa th́ Trung Quốc là ngọn núi
lửa đang sôi sục và sẵn sàng bùng nổ.
Trong khu vực của OSS, xuất
hiện nhiều bộ mặt mới. Một số là những
tay kỳ cựu đă hoạt
động lâu năm trong nội địa Trung Quốc.
Số khác mới toanh, mới từ Mỹ
đến, quá chậm để phục vụ chiến tranh nhưng lại
lợi hại cho các hoạt động hậu chiến.
Helliwell cho tôi biết đủ thứ chuyện đă xảy ra ở
Côn Minh, Trùng Khánh và Diên
An, hàng loạt vấn đề
mà OSS, Wedemeyer, Hurley và Tưởng đang phải
đương đầu. Các toán Mercy của chúng tôi đă gặp
vô vàn khó khăn với người Nga, Nhật và quân của
Mao, từ vụ t́m cứu thê thảm tướng Wainwright từ
một trại tù binh Nhật ở Măn Châu Lư cho đến cái
chết vô nghĩa của John M. Birch trong khi tiến
hành chiến dịch t́m cứu ở Suchow.
Một vấn đề hoàn toàn khác và t́nh h́nh rối loạn
ở Côn Minh, đang lan
tràn một cách nguy hiểm những tin đồn đại về nội
chiến. Thống đốc Long Vân đe doạ làm đảo chính
chống lại Quốc dân đảng và định bắt giữ tất cả
người Mỹ và các đồ viện trợ của Đồng minh ở Vân
Nam để làm con tin. Wedemeyer đă yêu cầu Heppner
bảo vệ tính mạng và tài sản người Mỹ trong
trường hợp có nổi loạn và trung tá A.T. Cox(1)
đă được lệnh bố pḥng các cơ sở của OSS, toà
Lănh sự Mỹ, trụ sở Hội Chữ thập đỏ và các quyền
lợi khác của Mỹ.
Nhưng vấn đề hàng đầu đối với Wedemeyer và
Hurley vẫn là họ đang bị Pháp và Anh làm áp lục
về việc kiểm soát Đông Dương. Heppner lại ở Côn
Minh nên ngay đêm hôm tôi tới, Helliwell và tôi
đă cùng ông bay về Trùng Khánh để gặp các đại
diện Đại sứ quán và Chiến trường thảo luận về
các hoạt động của tôi ở Đông Dương và về chính
sách của Mỹ.
Giữa lúc t́nh h́nh nóng bỏng th́ USS - Trung
Quốc lại phải cải tổ tổ chức.
Không c̣n cần đến nhũng tổ
phá hoại biệt kích và đánh du kích nữa, nên phải
đưa họ về nước. Nhiệm
vụ phái đoàn OSS sau chiến tranh ở Trung Quốc
hoàn toàn chuyên về công tác t́nh báo và phản
gián mà thôi.
Helliwell đă được chỉ định cầm đầu Nha Mật vụ
mới lập.
Đến trưa, Heppner cho chúng tôi biết c̣n có
nhiều vấn đề khác đă gây phiền toái cho người
Mỹ. Quentin Roosevelt đă được xem những lời
trích dẫn trong một bản giác thư của Bộ ngoại
giao do J.C Dunn(2)
viết. Bản giác thư nói về cuộc gặp gỡ ngày 29-8
giữa Tưởng phu nhân với Tổng hống Truman, trong
đó Tổng thống đă chỉ rằng “đă không đi tới một
quyết định nào” liên quan đến tương lai của Đông
Dương trong cuộc thảo luận mới đây của Tổng
thống với tướng De Gaulle(3). Tôi rất băn khoăn
về t́nh trạng mập mờ trong lập trường của Mỹ và
hỏi Heppner nhưng ông cũng lúng túng. Đại sứ
Hurley đă tỏ ra muốn thấy không có ǵ tốt hơn là
một “Đông Dương dân chủ”, và hay nhất là thuộc
quyền bảo trọ của Quốc dân Đảng. Trong các công
văn chính thức mới đây gửi về Nhà Trắng và Bộ
Ngoại giao, ông đă có nhiều dịp lên án “đế quốc”
Anh, Pháp và Hà Lan. Nhưng rơ ràng là ông không
vừa ḷng với Hồ Chí Minh và việc Cộng sản nắm
chính quyền nên đă muốn cho rút toán OSS về và
để Tưởng đối phó với mọi vấn đề. Đại sứ cũng đă
yêu cầu có một sự giải thích làm sáng tỏ chính
sách Mỹ nhưng chỉ nhận được của Washington một
câu trả ḷi ngắn gọn “không có ǵ thay đổi”.
Nhưng chính sách lại đang thay đổi, ít nhất cũng
trong phạm vi thi
hành. Mặc dù có điều xác nhận “không có quyết
định” của Tổng thống Truman và “không thay đổi”
của Bộ Ngoại giao, thực tế lại cho thấy chúng ta
không c̣n chống đối một cách tích cực những mưu
mô của người Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương bằng
vũ lực nếu cần.
Tôi nêu vấn đề có thể đă đến
lúc OSS nên rút lui khỏi hội trường.
Heppner không đồng ư - OSS nhất định sẽ vượt qua
được khi nào mà chúng ta có được một lập trường
dứt khoát rành mạch của Nhà Trắng.
ĐI BÊN R̀A CÁC LỐI THOÁT
Chúng tôi tới Trùng Khánh lúc khoảng
2 giờ 30 và đi thẳng ngay tới Đại sứ quán. Tướng
Olmsted(4) chủ tŕ
cuộc hội nghị và mở đầu nói rằng Đông Dương
trước đây phần nào đă bị lăng quên giữa nhiều
vấn đề cấp bách khác. Nhưng
những sự kiện mới xảy ra đă đ̣i hỏi Chiến trường
phải đi thẳng vào các vấn đề của khu vực này.
Heppner tỏ ư vừa ḷng và
giới thiệu tôi báo cáo cho hội nghị biết t́nh
h́nh mới nhất.
Tôi nêu ra nhiệm vụ chung đối với toàn Đông
Dương, nhấn mạnh vào chỉ thị đặc biệt tháng 4
của Nhà Trắng về hoạt động của chúng tôi ở Trung
Quốc, và các mối quan hệ với M.5 ở Côn Minh, sau
đó nói đến vai tṛ hiện nay của phái đoàn OSS ở
Hà Nội. Tôi báo cáo tổng hợp về các sự kiện xảy
ra từ khi chúng tôi đến Hà Nội, tả lại tóm tắt
sự xung đột của các thế lực chính trị và mối
quan hệ giữa người Mỹ, người Pháp và người Việt
Nam. Tôi vạch rơ vị trí
trung lập của chúng tôi đối với nguyện vọng của
nước Pháp và hoài băo của người Việt nhằm nắm
quyền kiểm soát Việt Nam.
Nhưng, tôi nói trên trường
chính trị chúng ta đă đạt tới một điểm, mà ở đó
chúng ta gặp cực kỳ khó khăn để tiếp tục giữ
được lập trường trung lập, v́ vậy vấn đề được
đặt ra là phải có một sự xem xét lại lập trường
này.
Tướng Olmsted đă hỏi một cách chính xác về những
chỉ thị công tác ban đầu của tôi và sau này đă
có ǵ thay đổi trong đó không? Tôi đáp lại là
tướng Donovan đă chỉ thị cho tôi một cách đơn
giản là tiến hành các hoạt động bí mật chống
Nhật ở Đông Dương, và thiết lập một mạng lưới
t́nh báo có hiệu lực để phục vụ cho tướng
Wedemeyer. Đáp lại câu hỏi của bí thư Đại sứ
quán Paxton(5) về
những chỉ thị sử dụng các lực lượng và phương
tiện của Pháp; tôi nói là hoàn toàn chính đáng
được sử dụng họ trong chừng mực mà điều đó không
phải là một cách để khuyến khích hay giúp đỡ
người Pháp thực hiện ư đồ muốn chiếm lại thuộc
địa cũ của họ bằng vũ lực.
Tôi lại nhắc lại rằng tướng Wedemeyer và Đại sứ
Hurley đều biết rơ về các chỉ thị công tác nói
trên và tôi đă được sự ủng hộ đầy đủ của Hành
dinh Chiến trường và ở một mức độ thấp hơn, của
Đại sứ quán.
Paxton phát biểu là nhiệm vụ
của tôi thuộc lănh vực quân sự nên Đại sứ quán
không có sự lănh đạo trực tiếp, trừ trường hợp
cố vấn về mặt chính trị nếu được hỏi ư kiến.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ư
về điểm này, nhưng vấn đề chính sách Mỹ là một
vấn đề của Đại sứ quán nên tôi hỏi là từ tháng
4, chính sách đă có ǵ thay đổi không.
Paxton trả lời là chỉ thị cuối cùng của Bộ Ngoại
giao đă được ghi trong công hàm ngày 7-6 của Thứ
trưởng Ngoại giao Grew.
Heppner và tôi xác nhận là có được biết công hàm
đó và hỏi thêm là như thế chúng tôi có thể hiểu
là chỉ thị tháng 4 vẫn c̣n có giá trị đối với
tôi. Lúc này, tướng
Olmsted xen vào, tỏ ư muốn biết bản công hàm
tháng 6 là ǵ.
Paxton tuyên bố bản công hàm
ghi “không thay đổi” trong chính sách nhưng cũng
thêm vào đó những điều nhập nhằng.
Thứ trưởng Grew đă vạch ra
rằng khái niệm của Roosevelt về vấn đề uỷ trị
đối với Đông Dương hầu như đă bị gạt bỏ ở hội
nghị San Francisco.
Lúc đó Mỹ đă nhấn mạnh vào việc phải có một biện
pháp tự trị tiến bộ cho tất cả các nước phụ
thuộc. Grew đă nêu rơ ư kiến của Tổng
thống Truman là vấn đề sẽ được giải quyết sau
khi chiến tranh kết thúc, nhưng vào thời điểm
thích hợp nào th́ phải hỏi chính phủ Pháp để có
được một “sự trả lời tích cực”. Theo ông, chính
qua những lời gián tiếp này mà Tổng thống muốn
nói là đă không đạt tới một quyết định nào về
tương lai của Đông Dương.
“Được!”, Olmsted lại hỏi, “Thế rồi sao?”. Trong
tuần lễ đó (tuần lễ từ 2-9), Đại sứ Hurley đă
phải thảo luận với Wedemeyer một dự án khá hóc
búa của Pháp ở Washington, đề đạt coi Đông Dương
như là một vùng đất đai của địch đầu hàng trong
khu vực của Anh dưới quyền đô đốc Mounbatten.
Người Pháp c̣n đề nghị thêm: đối với viên chỉ
huy Nhật, tướng Tsuchihashi th́ bản thân tướng
này sẽ đầu hàng với người Trung Quốc trên lănh
thổ Trung Quốc, nhưng c̣n việc đầu hàng của quân
ông ta th́ sẽ giao cho người Pháp thuộc quyền Bộ
chỉ huy Anh tiếp nhận.
Theo Paxton, đề nghị của Pháp đă đặt Đại sứ
chúng ta vào một vị trí rắc rối đối với Tưởng.
Thực may mắn là Washington đă không chịu khuất
phục hoàn toàn và đă giữ lập trường là nếu người
Pháp tranh thủ được sự đồng t́nh của Anh và
Trung Quốc về vấn đề đó th́ Mỹ cũng sẽ vui ḷng
chấp nhận hành động theo, và tướng Mac Arthur sẽ
không có ǵ bị phản đối trên các lănh vực quân
sự.
Olmsted ngắt lời, nói rằng rơ ràng là tướng Mac
Arthur sẽ khó mà biện minh được cho việc sửa đổi
lại Mệnh lệnh chung số 1 qua việc cắt xén các
nghị quyết của Hội nghị Potsdam và đưa người
Pháp vào số các nước Đồng minh đă được chỉ định
tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật. Nhưng ông thêm,
Tưởng sẽ không bao giờ đồng ư cho phép một nước
không tham gia vào cuộc chiến tranh châu Á -
Thái B́nh Dương - nước Pháp - đứng ra nhận sự
đầu hàng các lực lượng Nhật trên chiến trường do
ông phụ trách. Theo Olmsted, tướng Wedemeyer đă
thảo luận các vấn đề này với Thống chế và bác sĩ
K.C. Wu(6) và người Trung Quốc sẽ trả lời dứt
khoát là “không!”.
Đến đây, Heppner nhận xét vấn đề khó xử của Đông
Dương khi nào cũng là một điều rnâu thuẫn của Mỹ
trước những quyền lợi của Pháp và các nguyên tắc
về dân chủ của Mỹ. Qua việc trao đổi thư tín
riêng với một người nào đó trong Bộ chỉ huy Đông
Nam Á (SEAC), ông đă được biết vào khoảng 30-8,
Bộ Ngoại giao Mỹ đă báo cho Bishop, bí thư uỷ
ban Mỹ ở New Delhi, rằng Mỹ không có ư định phản
đối việc Pháp quay lại cai trị Đông Dương, và
nói rộng ra, không có vấn đề xem lại chủ quyền
Pháp đối với Đông Dương. Nhưng Bộ Ngoại giao vẫn
không ngớt nhắc lại đó không phải là chính sách
của Mỹ nhằm giúp Pháp chiếm lại Đông Dương bằng
vũ lực. Heppner nói tiếp: Bộ c̣n báo cho Bishop
biết Mỹ mong muốn Pháp phục hồi lại quyền cai
trị với danh nghĩa là yêu sách của Pháp đă được
nhân dân Đông Dương ủng hộ và sự ủng hộ đó đă
được chứng minh bằng những sự kiện tiếp sau. Nói
một cách khác đi, lập trường của chúng ta sẽ là
đứng ngoài và để cho Pháp chiếm lại quyền
cai trị, ngay cả bằng
vũ lực, miễn là chúng ta không giúp đỡ và chỉ
chờ xem kết quả.
Helliwell, vẫn ngồi yên từ đầu, bật lên nói là
điều mà tất cả chúng tôi thắc mắc: chính sách ǵ
mà như vậy? Chúng ta có giúp người Pháp chiếm
lại quyền hay không? Chúng
ta có giúp Hồ Chí Minh thiết lập một chế độ “dân
chủ” cho đồng minh Nga của chúng ta không?
Hay là chúng ta đă “hoá dại” và quên hết những
lời lẽ hào nhoáng trong Hiến chương Bắc Đại Tây
Dương, trong bản Tuyên ngôn Độc lập, và v.v…?
Tất cả chúng tôi chờ Paxton
trả lời, nhưng tướng Olmsted đă phá vỡ sự im
lặng kéo dài và tuyên bố là chúng ta không thể
thay đổi được chính sách cũ mà cũng chẳng làm ra
được chính sách mới, nhưng chắc là chúng ta có
đầy đủ khả năng để giải thích được chính sách
hiện hành. Cuối cùng,
Paxton đă gợi ư là chúng tôi nên xem xét đến một
điểm trong chính sách nói trên có liên quan cả
đến người Pháp và Việt Minh.
Đối với người Pháp, chúng ta ở trong một thế
không hay ho ǵ là không có khả năng hỗ trợ về
tiếp tế hậu cần để giúp họ từ Chiến trường Trung
Quốc trở lại Đông Dương. Do đó chúng ta phải để
cho người Trung Quốc, tuy không muốn, nhưng lại
là người duy nhất có điều kiện giúp đỡ cho người
Pháp. Không cần phải có
chúng ta xen vào giữa họ.
V́ vậy chúng ra sẽ không làm
ǵ cả.
C̣n về Hồ Chí Minh, ông đă
chiếm lại được vị trí của ḿnh, nhưng đang cưỡi
trên con ngựa rừng không yên, và chỉ cầm được
một dây chằng. Trong
khi Mỹ chưa có quan hệ ngoại giao chính thức với
Chính phủ lâm thời Việt Nam th́ không thấy có ǵ
phải cam kết giúp đỡ họ.
Tuy vậy, chúng ta cũng có
thể ủng hộ về mặt tinh thần, một cách không
chính thưc và kín đáo nhưng không có ǵ quan
trọng. Chúng ta sẽ
biến, khi người Nhật đă được giải giáp và hồi
hương.
Đó là quan điểm của Paxton và đó cũng là một ư
kiến giúp đỡ khá hay ho, đẹp đẽ của một nhân
viên Đại sứ quán. “Nhưng”,
tôi hỏi, “thế c̣n OSS”? Cảm thấy có ít
nhiều gay gắt nên Olmsted vội trả lời: “Trước đă
làm ǵ th́ các anh cứ đúng như thế mà làm. Nhiệm
vụ của các anh là thu
xếp với người Nhật và người Trung Quốc về việc
đầu hàng của người Nhật. Các anh c̣n phải làm hồ
sơ về các tội phạm chiến tranh.
Và sau hết là nhiệm vụ lâu
dài của các anh. Vấn
đề quan hệ quốc tế với Pháp, Trung Quốc và Việt
Nam là một vấn đề thuộc Bộ Ngoại giao giải
quyết”.
Chúng tôi chuyển sang các vấn đề khác. Cơ quan
tham mưu Chiến trường đă
theo dơi các báo cáo và đặc biệt chú ư
đến các sự kiện xảy ra mới đây ở Sài G̣n. Tướng
Wedemeyer lo lắng t́nh h́nh đó có thể vượt ra
ngoài vĩ tuyến 16 và
muốn thường xuyên nắm được tin tức. Theo gợi ư
của Heppner, tôi kể lại tất cả những điều mà tôi
đă được nghe nói ở Hà Nội: sự lo sợ của người
Pháp, phản ứng của người Việt và mối quan tâm
của người Nhật. Tôi cho rằng, mặc dù sự rối loạn
xảy ra trên khu vực của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á
(SEAC) nhưng nó cũng có thể tác động mạnh mẽ một
cách dễ dàng sang khu vực thuộc chiến trường
Trung Quốc. Lúc này, vấn đề được
thu hẹp trong sự
tranh chấp chính trị giũa những người Việt đang
t́m cách kiểm soát chính phủ và chỉ có những tác
động ngoài lề đối với dân chúng Pháp và Trung
Quốc. Nhưng với việc quân Anh sắp tới Sài G̣n để
tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và lại có người
Pháp theo đuôi người
Anh th́ có thể nổ ra rối loạn nghiêm trọng. Một
điều quan trọng cuối cùng tôi nêu lên là đă có
một toán chuyên gia OSS - AGAS Mỹ nào đó đi cùng
với đội tiền trạm Anh và chắc chắn rằng họ cũng
sẽ phải đối phó với những vấn đề mà chúng tôi đă
gặp ở Hà Nội.
Olmsted và nhiều sĩ quan đă ngạc
nhiên khi nghe nói một toán OSS đă được phái đi
theo các hoạt dộng
của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) và đă yêu cầu
được biết rơ thêm. Heppner nói ngay đó là một
hoạt động quan trọng và ông chỉ được phép tiết
lộ rằng Uỷ ban hỗn hợp Bộ Ngoại giao, Chiến
tranh và Hải quân (SWNCC) đă ra lệnh tiến hành
hoạt động này và đă thông báo cho tướng
Wedemeyer và Đại sứ Hurley biết.
Olmsted muốn kết thúc hội
nghị và hỏi xem có ai hỏi ǵ thêm không.
Tôi đưa ra một câu hỏi cuối cùng: Nếu tôi tiếp
tục xúc tiến các hoạt động chiến tranh chính trị
ở Đông Dương th́ nhóm chúng tôi sẽ ra sao?
Mọi người im lặng.
Sau hết Olmsted hỏi lại tôi muốn nói ǵ qua danh
từ chiến tranh chính trị và
theo ông nghĩ th́ Paxton đă trả lời câu
hỏi đó trước rồi. Nhưng Paxton lại nói ngay là
ông không đả động ǵ đến vấn đề này mà chỉ làm
việc giải thích chính sách đă được công bố của
Mỹ.
Một cách bộc trực, Olmsted nhận là đă không hiểu
câu hỏi của tôi và nói rằng nếu chỉ thị mà tôi
nhận được là xúc tiến chiến tranh chính trị và
cái mà tôi làm trong chiến tranh chính trị đó
phù hợp với chính sách của Mỹ th́ tôi có thể
bằng mọi cách “cứ cho tiến hành”.
Mọi người đều cười, cuộc hội
nghị bế mạc.
Cũng như trong phần lớn các
cuộc hội họp ở cấp Chiến trường và Đại sứ quán,
mọi người đều vui vẻ và không phải cam kết điều
ǵ. Đối với tôi, các cuộc hội họp như vậy
chỉ có mỗi một mục đích để nói cho những người
làm quyết định biết rằng người chấp hành đă
quyết định làm việc này hay việc khác, tuỳ
theo vấn đề được đưa
ra thảo luận.
Chúng tôi được Walt
Robertson, Bộ trưởng cố vấn về các vấn đề kinh
tế, mời dự buổi cơm chiều và đêm đó ở lại Trùng
Khánh. Nhưng đại tá W.P.
Davis(7) bên cơ quan
OSS đă báo cho Heppner có công văn khẩn từ Côn
Minh gửi tới. Davis đưa ra 2
tin làm náo động mọi người.
Một là việc sơ tán các tù
binh chiến tranh Mỹ từ Sài G̣n.
Hai là lính của Long Vân đă
cướp phá các kho tiếp tế của Mỹ trong vùng Côn
Minh. Thiếu tướng
H.S. Aurand, chỉ huy hậu cần, yêu cầu OSS giúp
đỡ ngăn chặn không để cho các kho tàng khác của
Mỹ tiếp tục bị cướp đoạt.
Heppner đă điện trao đổi với
Aurand và sau 15 phút nói chuyện liên tục, đă
quyết định trở về Côn Minh ngay tức khắc.
Ông xin cáo từ Robertson và
chúng tôi chạy đi t́m toán lái máy bay.
Phải sau nhiều giờ nữa,
chiếc C.47 của chúng tôi mới cất cánh nổi.
Tiếp đó, chúng tôi được mời
ăn lương khô và nước lạnh. Tất nhiên trên
máy bay không có đá…
PHƯƠNG ÁN “EMBANKMENT”( 8 )
Trong lúc nghỉ
xả hơi sau một ngày kiệt sức, tôi hỏi Heppner
cho biết có điều ǵ không b́nh thường đă xảy ra
chung quanh chiến dịch của OSS trong Bộ Tư lệnh
Đông Nam Á (SEAC) và ở phía nam Đông Dương. Về
mặt này, tôi biết quá ít, ngoài tin Ed Taylor đă
ṛi Kandy đi hoạt động, tin ở đó chúng ta tham
gia vào việc giúp đỡ phong trào “Thái tự do”,
xúc tiến điều đ́nh với Chính phủ Giải phóng
Thái; và Heppner cũng c̣n có ít nhiều mối quan
hệ ràng buộc với các lợi ích của Mỹ trong khu
vực Đông Nam Á.
Heppner đă kể cho Helliwell và tôi nghe phần đầu
câu chuyện mà không đầy ba tuần lễ sau đă kết
thúc bằng tấn bi kịch và đưa đến người Mỹ nạn
nhân thương vong đầu tiên sau chiến tranh ở Đông
Dương.
Vào tháng Giêng, Bộ trưởng Stettinius đă báo cho
tướng Donavan biết về những cố gắng của Bộ Ngoại
giao để điều tra t́nh h́nh các tù dân sự Mỹ
(CIS) và tù binh chiến tranh ở Nhật và trên đất
Nhật chiếm đóng. Hội Chữ
thập đỏ quốc tế đă thực hiện được một số vụ cứu
trợ nhân đạo nhưng chỗ được chỗ không và c̣n tuỳ
thuộc vào ư thích nhất thời của người chỉ huy
Nhật tại chỗ. Stettinius thấy cần phải
báo cho Chính phủ biết các trại tù binh ở đâu,
số lượng và t́nh trạng các công dân Mỹ bị giam
giữ v.v…
Bộ Ngoại giao đă nhờ Marcel
Junod(9), F.B. James(10), và Camille
George(11) điều đ́nh lập một mạng lưới thông tin
giữa Mỹ và Nhật thông qua chính phủ Thuỵ Sĩ.
Đồng thời, Bộ Chiến tranh cũng đặt ra Ban MIS -
X trong Cục T́nh báo quân sự để giúp giải thoát
các quân nhân trốn tránh khỏi bị bắt giữ v.v…
Ở Chiến trường Trung Quốc,
nhiệm vụ này được giao cho AGAS.
Nhưng các tù nhân dân sự th́
không được tổ chức nào quản lư, nên chỉ c̣n nhờ
vào hoạt động của Hội Chữ thập đỏ Quốc tế.
Donovan được giao nhiệm vụ này và đă chỉ thị cho
Ban T́nh báo (SI) thuộc SEAC và Chiến trường
Trung Quốc đảm nhận việc xác định các trại, lập
danh sách tù binh chiến tranh và tù thường dân,
cộng tác chặt chẽ với AGAS. Trong những tháng
c̣n chiến tranh năm 1945, OSS đă rất thành công
trong các chiến dịch t́nh báo này mà đỉnh cao là
việc tung ra hoạt
động các toán “Mercy”.
Allen Dulles đă báo cho Donovan biết việc Nhật
thăm ḍ hoà b́nh qua các cuộc tiếp xúc với OSS,
Donovan cũng được biết về sự tiến triển của bom
hạt nhân và ít nhiều tin tức về kết quả thử
nghiệm ở New Mexico. Trong
thời kỳ Hội nghị Potsdam, Donovan đă lường trước
được việc đầu hàng sắp xảy ra của Nhật và đă
thông báo cho Taylor ở Kandy và Heppner ở Trùng
Khanh biết. Dựa vào các báo cáo của OSS
về sự ngược đăi, lộng hành trong một số trại của
Nhật, Donovan đă đề nghị với Tham mưu trưởng
Liên quân là phải có biện pháp bảo vệ các công
dân Mỹ trong các trại tù binh ở Đông Nam Á trong
trường hợp Nhật đầu hàng một cách đột ngột. Uỷ
ban phối hợp Bộ Ngoại giao, Chiến tranh, Hải
quân đă nghiên cứu vấn đề Mỹ tham gia công tác
hậu chiến ở Bộ Tư lệnh Đông Nam Á (SEAC) và đă
đồng ư để các nhân viên người Mỹ sẽ phải ở lại
SEAC ít nhất cho tới khi có các sĩ quan Cục Đối
ngoại Mỹ đến làm việc tại Thái Lan và các nơi
khách chỉ có những người Mỹ, nhân viên của OSS
mới được miễn trừ.
Nhưng Bishop lại báo qua con đường không chính
thức, cho Heppner biết là Bộ Ngoại giao Anh đă
phân công cho các quan chức ngoại giao và lănh
sự ở nhiều Bộ chỉ huy các lực lượng ở Đông Nam Á
làm cố vấn chính trị dưới quyền Maberly Ester
Dening(12) của SOE(13). Theo Bishop th́ nhiệm vụ
của của số cán bộ này là điều tra bảo cáo về
t́nh h́nh kinh tế và chính trị vùng Nhật chiếm
đóng trước đây. Ngoài ra, Dening cũng nói cho
Bishop biết tự người Anh sẽ phụ trách vấn đề
“bảo vệ” quyền lợi của Đồng minh trong các vùng
đất chiếm đóng và các vấn đề liên quan đến quyền
lợi Mỹ th́ có thể giải quyết thông qua ông ta,
Dening, cho tới khi các cơ quan lănh sự Mỹ mở
cửa trở lại.
Đó quả là một t́nh h́nh
không thể chấp nhận được. Donavan đă chỉ
thị cho OSS - Đông Nam Á và Heppner ở Trung Quốc
cứ lặng lẽ theo gương người Anh, tổ chức ra các
toán OSS ở Đông Nam Á để đi theo quân đội chiếm
đóng Anh vào Thái Lan, Đông Dương, Nam Dương,
Malaysia và Bornéo. V́ vậy, vào cuối tháng 7,
phương án Embankment đă được đưa ra thực hiện
nhằm phái khoảng 50 sĩ quan, binh lính được huấn
luyện và trang bị cho những nhiệm vụ đặc biệt
của OSS, AGAS để đi cùng các “đơn vị xung kích”
đầu tiên của Anh vào Đông Dương.
Người Mỹ liền bị đơn vị đặc nhiệm 136 của SOE
coi như là những người cạnh tranh, và thực tế
đơn vị này đă đỡ đầu cho các toán SLFEO của Pháp
vào hoạt động ở Đông Dương, đồng thời chống lại
toán t́nh báo Mỹ. Người Mỹ vẫn được coi là chống
thực dân và bị người Pháp nguyền rủa, do đó càng
bị ghét cay ghét đắng.
Và trong một quyết định vào giờ chót, thiếu
tướng D.D. Gracey(14), Tư lệnh lực lượng chiếm
đóng Anh ở Đông Dương đă gạt bỏ hoàn toàn phương
án Embankment ra khỏi chiến dịch Đông Dương.
Heppner điện cho huân tước Mounbatten phản đối
hành động độc đoán này của Gracey và Mounbatten
đă phải bắt ông bạn ḿnh cho phép một toán t́nh
báo Mỹ đă bị thu nhỏ lại rất nhiều, chỉ có 17
người, được phép hoạt động vào ngày 2-9, đi
trước cả đội quân của Gracey.
Phụ trách phương án Embankment là một thiếu tá
nổi tiếng 28 tuổi (sau là trung tá) A. Peter
Dewey(15). Trước đó,
anh ta đă được Whitaker chọn, định để bổ sung
cho hoạt động của tôi ở Bắc Đông Dương. Chúng
tôi đă biết Dewey từ khi c̣n ở Bắc Phi, biết rơ
các thành tích nổi bật của anh trong công tác
t́nh báo và chiến tranh chính trị. Heppner,
Whitaker, Helliwell và tôi đều bằng ḷng, v́ có
Dewey ở miền Nam th́ toán Đông Dương của chúng
tôi sẽ được tăng cường rơ rệt, nên chúng tôi
đồng thanh yêu cầu giao nhiệm vụ cho anh ta.
Dewey đến hành dinh của SEAC
vào cuối tháng 7, và việc đầu tiên là bắt liên
lạc với tôi Chúng tôi thoả thuận cùng nhau phối
hợp hoạt động, trao đổi tin tức và nhận xét.
Tất cả công văn và báo cáo của chúng tôi dều
được chuyển theo hai
chiều qua Côn Minh.
Mặc dù tuyến công tác của chúng tôi bị hạn chế
bởi ranh giới quân sự ở vĩ tuyến 16, nhưng hoạt
động của OSS Đông Nam Á và OSS Chiến trường
Trung Quốc đă được phối hợp với nhau, theo tín
hiệu của Heppner.
Từ khi nổ ra sự kiện Ngày Độc lập, tôi không
theo dơi được t́nh
h́nh kế hoạch Embankment nữa, tôi phải nhờ đến
Heppner. Khi tướng Gracey bị
Mounbatten gạt bỏ th́ chỗ dựa của Dewey vào
người Anh cũng “bị suy yếu”. Dewey trở
thành con người không được hoan nghênh ở đó.
Gracey đă cho phối thuộc toán OSS nhỏ bé của anh
vào Ban Chỉ huy Đơn vị xung kích của SEAC vào
SàI G̣n, dưới quyền trung tá người Anh Cass.
Người ta cho Dewey biết phải
tự xoay xở lấy, không nên chờ đợi sự hỗ trợ về
tiếp tế quân sự của người Anh. Điều đó
cho phép Dewey tự do hoạt động mà không cần phải
có sự giải thích đối với Cass hoặc Gracey trong
vấn đề tù binh và tù thường dân của Đồng minh,
quyết định quy chế tài sản Mỹ, điều tra các tội
phạm chiến tranh và thực hiện các chỉ thị khác
của OSS.
Được hành động một cách độc
lập, Dewey đă không để phí thời gian.
Trong khi người Anh chuẩn bị một cách chu đáo
cho một cuộc hành quân “thực sự” để vào Sài G̣n,
dự kiến vào tuần lễ thứ hai trong tháng 9, th́
Dewey đă phái một tổ tiền trạm bốn
người(16) do trung uư
Counasse cầm đầu để tiến hành trước các hoạt
động về tù binh chiến tranh và tù thường dân.
Chiếc phi cơ C.47 của họ đă hạ cánh vào lúc 3
giờ chiều ngày chủ nhật 2-9, xuống một đường bay
nhỏ của Nhật gần sân bay chính Sài G̣n.
Sau bất ngờ của sự việc toán chúng tôi hạ xuống
Hà Nội ngày 22-8, người Nhật chắc cũng đă dự
đoán sẽ có nhiều khả năng nhiều toán khác của
Đồng minh tới nên họ không c̣n bị bất ngờ. Khi
phi cơ đỗ lại, nhiều xe quân sự đă lao tới để
gặp người Mỹ. Theo báo cáo của Counasse th́ một
toán Nhật khoảng 30 sĩ quan và lính do một đại
tá có sĩ quan tuỳ tùng đă ra đón toán t́nh báo
“một cách trịnh trọng”. Để
cho đoàn có một quy chế chính thức, Counasse đă
tự phong quân hàm cấp thiếu tá, các người khác
là đại uư, trung uư.
Ngày 4-9, trong khi tôi từ Hà Nội bay đi Côn
Minh, Dewey cùng với 4 người nữa đă đến tăng
cường thêm cho toán ở Sài g̣n(17). Chiều hôm đó,
Dewey đă điện cho hành dinh ở Candy là Counasse
đă phát hiện được 4.549 tù binh chiến tranh Đồng
minh(18) trong đó có 214 người Mỹ(19), bị giam
tại hai trại trong vùng Sài G̣n. Những người ốm
nặng đă được bắt đầu chuyển đi từ ngày 5: chính
là ngày mà chúng tôi đang hội họp ở Trùng Khánh;
tất cả người c̣n lại sẽ được sơ tán vào sáng
ngày 6. Bức điện Heppner
nhận được chiều hôm đó nói về việc người Anh
tranh giành với người Mỹ về việc sử dụng đường
không và các tù binh Mỹ đă không được ưu tiên
trước. Sợ rằng các tù binh của chúng ta
bị bỏ bê, tướng Wedemeyer ngay chiều hôm đó đă
ra lệnh cho máy bay Mỹ từ Côn Minh bay tới Sài
G̣n để giúp cho việc sơ tán người Mỹ.
Vào khoảng nửa đêm th́ phi cơ của chúng tôi tới
gần Côn Minh, chúng tôi đă nh́n lờ mờ thấy cái
hồ lớn ở đó và đến đúng 1 giờ sáng ngày 6 chúng
tôi về tới khu nhà vắng vẻ của OSS. Heppner và
Helliwell phải đối phó ngay với các vụ cướp phá
trụ sở OSS của quân lính Long Vân trong khi tôi
tiếp tục nghiền ngầm về những điều lộn xộn tối
nghĩa của cái gọi là hội họp “chính trị” mà
chúng tôi đă tiến hành ở Trùng Khánh.
Chú thích:
(1) Sĩ quan OSS phụ trách trung tâm
huấn luyện biệt kích Trung Quốc ở Côn Minh
(2) Trợ lư Ngoại trưởng
(3) Tổng thống Truman gặp tướng De Gaulle tại
Nhà Trắng ngày 22-8-1945 và sau đó đă nói với bà
Tưởng rằng De Gaulle đă đảm bảo với ông là nước
Pháp sẽ cho tiến hành ngay từng bước để cho Đông
Dương được độc lập. Tổng
thống cũng nói với bà Tưởng biết là không có vấn
đền “thảo luận về quyền uỷ trị”.
(4) Thiếu tướng J. Olmsted, G.5 Hành dinh quân
Mỹ ở Trung Quốc, thay mặt Hành dinh tại hội
nghị.
(5) J.H. Paxton, bí thư thứ hai Đại sứ quán Mỹ
ở Trùng Khánh, thay mặt Đại sứ quán tại hội nghị
(6) Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
(7) Đại tá Davis, Phó Ban OSS - Trung Quốc
( 8 ) “Đập ngăn sông”
(9) Trưởng phái đoàn của Uỷ ban Quốc tế Chữ
thập đỏ tại Nhật
(10) Đại diện Hội Chử thập đỏ Mỹ tại Genève
(11) Bộ trưởng Thuỵ Sĩ tại Nhật
(12) tức Sir Esler, Cố vấn chính trị Anh thuộc
Bộ Tổng tư lệnh tốc cao SEAC, Giám đốc SOE ở
SEAC
(13) Nha Công tác đặc biệt Anh, tương tự OSS
của Mỹ
(14) Thiếu tướng Douglas D. Gracey, sinh năm
1894, tư lệnh Lục quân Đồng minh ở Đông Dương
năm vĩ tuyến 16, cầm đầu phái đoàn kiểm tra Đồng
minh của Bộ Tư lệnh Đông Nam Á và Đông Á (SEAC -
SAC), tư lệnh sư đoàn 20 Ấn Độ. Đến Sài G̣n ngày
13-9-1945, đi ngày 28-1-1946.
(15) Trung tá A. Peter Dewey (1917-1945), sĩ
quan chỉ huy kế hoạch Embankment của OSSNam.
Nghiên cứu lịch sử Pháp ở Yale, thạo tiếng Pháp,
phóng viên ở Paris của báo Chicago Daily News
(1930-1940), gia nhập quân đội Ba Lan ở Pháp mùa
xuân 1940, sau khi Pháp thua trận, trốn sang
Lisbon và trở về Mỹ, làm ở cơ quan điều chỉnh
công tác Xô Mỹ. Gia nhập quân đội Mỹ năm 1942,
hoạt động t́nh báo ở châu Phi và Trung Đông.
Được OSS tuyển mộ ở Alger 1943 và phái sang công
tác ở hành dinh SEAC tháng 7-1945.
Bị du kích Việt Minh giết
nhầm ở ngoại ô Sài G̣n ngày 26-9-1945.
đột nhập vào Nam Việt
(16) Nhóm tiền trạm gồm Trung uư Counasse,
thượng sĩ Nardella, thượng sĩ Hejna và trung sĩ
Paul
(17) gồm Đại uư Bluechel, đại uư Frost, trung uư
Bekker, trung uư Wicker.
Ngày hôm sau đến thêm 3 người nữa là các đại uư
White, Coolidge và Warner.
(18) gồm: trại BOBT
1.681 người (920 Anh, 592 Hà Lan, 194 Úc, 5 Mỹ),
trại 5E 2.686 người (1.394 Anh, 1.164 Hà Lan,
101 Úc, 209 Mỹ)
(19) gồm của sư đoàn 36 (120 người), Hạm tàu
Houston (86 người), VPB 117 (3 người), VPB 25 (2
người), trung đoàn phóng pháo cơ 308 (3 người)
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures