US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 35
Buổi từ biệt cuối cùng
Đúng 7 giờ tối, tôi có mặt ở
buồng đợi pḥng khách Bắc Bộ phủ.
Vơ Nguyên Giáp chào tôi
và cùng đi vào pḥng khách, nơi Hồ Chủ tịch
đang chờ cùng với Dương Đức Hiền, Nguyễn
Mạnh Hà và Trần Huy Liệu.
Chúng tôi đă biết nhau
nên không cần có nghi thức ǵ. Ông Hồ
ch́a bàn tay mảnh
khảnh đón tôi và nói: “Đây quả là một dịp
không hay. Mong rằng ông
chỉ xa chúng tôi một thời gian”.
Sau khi tôi đă thăm hỏi
những người khác, ông Hồ dẫn tôi và cả đoàn
tới bàn tiệc. Câu chuyện vẫn
chung chung, vừa
nói bằng tiếng Pháp vừa bằng tiếng Anh.
Tôi cảm thấy mọi người
đều cố gắng tránh những lời có thể làm cho
tôi lúng túng hoặc đặt tôi vào địa vị phải
bảo vệ lập trường của Đồng minh (Anh, Trung
Quốc). Sau bữa
cơm, chúng tôi ngồi lại chung quanh bàn 10,
15 phút. Trừ ông
Hồ và Giáp, mọi người xin rút lui sau khi đă
chúc tôi một cuộc hành tŕnh thú vị và tỏ ư
mong rằng tôi sẽ sớm trở lại để thăm hoặc
công tác ở Việt Nam.
Ba người chúng tôi chuyển sang một buồng nhỏ
hơn để dùng cà phê. Mấy phút sau, Giáp có
việc phải đi ra ngoài và đă bắt
tay tôi một cách
nồng nhiệt. Bằng một
tiếng Pháp hoàn hảo, ông nói nếu ông không
trở lại gặp được nữa th́ ông chỉ muốn tôi
hiểu cho rằng ông rất cảm tạ sự thông cảm
của tôi đối với sự nghiệp của nhân dân Việt
Nam. Ông bày tỏ sự đánh giá cao của
cá nhân ông và của các “chiến hữu” của ông
về sự giúp đỡ “to lớn” của “người Mỹ ở Côn
Minh” đối với ông “trong nhũng ngày trước
cách mạng”. Giáp hết lời và chúc tôi “bon
voyage”(1) và tỏ
ư mong rằng Việt Nam sẽ sớm có một người bạn
ở Washington.
Tôi ngạc nhiên và cũng
xúc động v́ đây là một dịp hiếm có Giáp đă
tự cho phép bộc lộ những t́nh cảm sâu kín
của ḿnh. Suốt trong những tuần lễ
tôi làm việc cùng ông, bao giờ ông cũng tỏ
ra lịch sự, thẳng thắn và say mê công việc,
nhưng không bao giờ để lộ ra bất cứ một t́nh
cảm nào đối với Mỹ hoặc cá nhân tôi. Trừ dịp
này và trong dịp lễ tiếp đón khi cờ của Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tung bay cùng với cờ
Mỹ, tôi đă xếp Giáp vào hàng ngũ những người
Cộng sản cứng rắn, và cũng có nghĩa là những
người này coi Mỹ là một nước đế quốc không
thể mang lại được một cái ǵ tốt đẹp cho sự
nghiệp của người Việt Nam và tất nhiên là
phải có một thái độ đối xử với người đại
diện của Mỹ (tôi) một cách thận trọng(2).
Nhưng lúc đó, tôi tin
chắc là ông đă hoàn toàn thành thật.
Khi Giáp đi ra, tôi cảm thấy có một ánh mắt
hài ḷng và đồng t́nh trên mặt ông Hồ. Tôi
cho lời từ biệt của Giáp sẽ được ông Hồ
khuyến khích, nhưng cũng rất có thể là một
cử chỉ thật ḷng của ông ta.
Tôi khó mà rơ được thực
hư như thế nào.
Khi chỉ c̣n ông Hồ và
tôi, ông hỏi ngay có phải Mỹ đang cho phép
Pháp trở lại Việt Nam không?
Ông không bàn luận mà lo
lắng và chỉ muốn qua tôi để biết một cách
không chính thức điều mà tôi nghĩ hoặc biết
về chính sách Mỹ đối với những ư đồ quá hiển
nhiên của Pháp.
Tôi nói cho ông biết chính sách Mỹ khi tôi
mới nhận nhiệm vụ là một chính sách “tránh
khỏi” Đông Dương, ngoại trừ các hoạt động
t́nh báo nhằm vào đối tượng người Nhật. Tôi
cũng nhắc lại là Roosevelt đă nhiều lần
tuyên bố về chính sách Mỹ không ủng hộ các
tham vọng thuộc địa của Pháp và không can
thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Chính sách đó hiện vẫn
được thi hành. Tôi đi xa hơn một bước
và nói với ông Hồ rằng từ khi Roosevelt mất,
nước Mỹ đă không hề có một bản tuyên bố
chính thức nào có nói đến vấn đề chủ quyền
Pháp đối với Việt Nam, cũng như Mỹ đă không
ủng hộ các kế hoạch của Pháp về Đông Dương.
Sự thật là tôi biết chắc chắn rằng không có
một sự thay đổi nào trong chính sách đ̣i hỏi
Mỹ phải ủng hộ Pháp dùng vũ lực để khôi phục
địa vị trước 1940 của Pháp ở Việt Nam.
Tôi cho rằng lập trường
của Mỹ cần phải thay đổi nếu như nhân dân
Việt Nam muốn cho những người Pháp quay trở
lại với một điều kiện nào đó.
Nhưng đó thực ra chỉ là
những điều phỏng đoán.
Tôi cũng nêu ra vấn đề là trước khi đi nhận
nhiệm vụ ở Hà Nội cũng như nhiều lần sau
này, tôi đă nhận được chỉ thị nhắc nhở là
đại diện của Mỹ ở Việt Nam phải tuyệt đối
trung lập. Tôi báo cho ông Hồ biết rằng dù
xu hướng cá nhân của tôi có chống lại hay
thiên về một nhóm nào hay một lư tưởng nào
đi nữa th́ tôi vẫn phải tuân thủ một cách
nghiêm ngặt các chỉ thị đă nhận được và có
thể nhiều lần hành động của tôi đă bị nhiều
thế lực khác nhau hiểu lầm. Đối với tướng
Gallagher, với AGAS, và các người Mỹ khác ở
Việt Nam, tôi đảm bảo với ông Hồ rằng nhiệm
vụ của họ được hạn chế trong việc giúp đỡ
người Trung Quốc, về công tác chính thức mà
các nước Đồng minh đă giao cho Tưởng - đó là
việc giải giáp quân Nhật bại trận.
Chúng tôi đă nhiều lần
trao đổi về vấn đề này.
Nhưng trong lần cuối
cùng này, tôi cảm thấy tôi đă không để cho
ông Hồ có một ảo tưởng hoặc hy vọng giả tạo
về sự viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam.
Ông Hồ lắng nghe một cách chăm chú, rồi lắc
đầu; ông nói với tôi ông không thể hoà giải
được lập trường của Mỹ ở Washington, Québec,
Téhéran và Postdam với thái độ thụ động của
nước này trước t́nh h́nh khẩn cấp đang xảy
ra ở Sài G̣n. Ông không thể nào hiểu được
rằng Mỹ, một nước nổi tiếng chống chủ nghĩa
thực dân mà lại làm ngơ và cho phép Anh và
thậm chí cả Trung Quốc giúp Pháp trong mưu
đồ nhằm áp đặt lại chế độ thuộc địa ở Việt
Nam. Ông nói không ai mù để mà không thấy
được sự thật hiển nhiên là quân đội Pháp
được Mỹ trang bị và tiếp tế, sớm muộn sẽ xâm
chiếm Lào, Cambodia, Trung Kỳ và cả Bắc Kỳ
nữa. Ông nói thêm một cách u uẩn: “Điều đó,
họ sẽ phải trả bằng một giá đắt”(3).
Nhưng một lần nữa, ông
vẫn hy vọng Mỹ sẽ ḱm chế được ư đồ thực dân
ngoan cố của Pháp. Ông lập luận rằng
nếu Mỹ chỉ dùng ảnh hưởng của ḿnh để tác
động đến De Gaulle thôi th́ cũng có thể đạt
tới được một cuộc ngừng bắn ở Việt Nam,
trong đó không chỉ riêng Pháp, mà tất cả các
nước bạn bè, đều có lợi v́ nền độc lập của
Việt Nam. Buông người
trên ghế một cách thoải mái, ông Hồ tiếp tục
nói. C̣n tôi th́ bị
thu hút khá mạnh
bởi cái triết lư của cá nhân ông nên không
hề ngắt lời ông dù chỉ với một câu hỏi. Ông
nói một cách chậm răi dịu dàng nhưng say sưa
và cẩn thận chọn lọc từng chữ một.
Ông đă nghĩ tới vấn đề của một cộng đồng
Liên Á gồm có ít nhất là Việt Nam, Cambodia,
Lào, Thái Lan, Malaysia, Miến Điện (gồm cả
Bengale), một Ấn Độ độc lập, một Indonesia
tự do và Philippin. Các nước này và cũng có
thể thêm các nước khác nữa cùng làm việc với
Mỹ, Anh, Pháp, sẽ góp phần xây dựng một cuộc
chung sống hoà
b́nh để phát triển các chương tŕnh mở mang
về chính trị và kinh tế v́ lợi ích chung.
Tôi thoáng như nghe thấy một cái ǵ đây rất
giống vối khái niệm Khối thịnh vượng chung
Đại Đông Á của Nhật. Nhưng ông Hồ đă nhấn
mạnh vấn đề tương hỗ giữa các nước b́nh đẳng
với nhau và coi đó là một điều căn bản khác
với một tổ hợp khu vực đặt dưới quyền thống
trị của Nhật.
Ông Hồ coi Mỹ là nước đi đầu trong phong
trào nói trên. Ông hỏi, “Phải chăng chính Mỹ
đă khai phá ra con đường này ở Philippin?”.
Và ông thấy “mây mù băo táp” đă bao trùm
Nghị viện Anh trong vấn đề trao trả đất đai
của Ấn Độ và Malaysia cho nhân dân, những
người chủ có đầy đủ thẩm quyền chính đáng
của Ấn Độ và Malaysia.
Ông Hồ cho rằng chủ nghĩa thực dân là một
thứ đă thuộc về quá khứ.
Đă gần một thế kỷ nay,
chế độ thực dân của bất cứ nước nào, ngay cả
các cường quốc hào phóng nhất, cũng đă thể
hiện là một chế độ áp bức và lạc hậu.
Nhân phẩm con người đă bị huỷ hoại, nền
thịnh vượng quốc gia bị tước đoạt ngoài sức
tưởng tượng. Nay đă đến
lúc phải thay đổi.
Để hỗ trợ cho quan điểm của ḿnh, ông Hồ lại
đưa ra những nguyên tắc chung mà Roosevelt
và Churchill đă nêu lên trong Hiến chương
Đại Tây Dương, Mỹ và Anh đă đảm bảo với thế
giới rằng họ không t́m kiếm những lợi ích về
đất đai; và cũng không khuyến khích những sự
cưỡng bách thay đổi đường biên giới ngược
lại ư nguyện của nhân dân, mặc dù Anh đă
giúp đơ cho Pháp ở Việt Nam và Thái Lan; cả
Mỹ và Anh dă nhiều lần tuyên bố công nhận
quyền của các dân tộc tự chọn lấy h́nh thức
chính quyền mà họ muốn và người Việt Nam
muốn được hưởng đặc quyền đó.
Cả hai nước Mỹ và Anh
đều tuyên bố họ thấy cần thiết phải khôi
phục lại chủ quyền và quyền tự trị cho các
dân tộc đă bị người ta cưỡng đoạt mất.
“Tại sao điều đó lại không được áp dụng cho
Việt Nam?”, ông
Hồ hỏi.
Ông đă nhấn mạnh vào sự cần thiết phát triển
kinh tế của Việt Nam không phải thuộc Pháp,
Nhật và Trung Quốc, hoặc thậm chí cả Mỹ; mà
là độc lập đối với mọi sự thống trị của nước
ngoài. Như Mỹ và Anh
trước đây, Việt Nam chủ trương một sự tự do
thông thương trên thế giới, chứ không phải
như trước đây chỉ hạn chế vào nước Pháp hoặc
Trung Quốc. Không có tự do thông
thương, Việt Nam sẽ không bao giờ phồn vinh
về kinh tế, và nhân dân Việt Nam như trước
đây, sẽ bị chặn lại để chỉ làm những công
việc thủ công tầm thường và buôn bán vụn
vặt.
Nếu đó thực sự là những nguyên tắc cao siêu
mà Mỹ và Anh đă phấn đấu trong Thế chiến thứ
hai, th́ tại sao trong bước khởi đầu thời kỳ
hậu chiến, họ đă từ bỏ những nguyên tắc đó
và đặc biệt là đă chối từ không áp dụng
chúng cho Việt Nam? Đúng
là Mỹ đă giúp đỡ cho cuộc đấu tranh của Việt
Nam trước đây, và đă tỏ ra có mục đích thành
thật ở Philippin. Tại sao nay Mỹ lại
tỏ ra nhu nhược trong khi Pháp
vi phạm các
nguyên tắc Hiến chương Đại Tây Dương và của
Liên hợp quốc? Tôi đă
không đáp lại và ông Hồ cũng chẳng chờ đợi
câu trả lởi.
Đột nhiên ông Hồ ngừng
mơ mộng, mỉm cười và nói mong tôi sẽ bỏ qua
sự suy tưởng đầy cảm tính của ông.
Ông Hồ cho biết, đối với
ông, việc bộc lộ những t́nh cảm thầm kín với
người ngoại quốc là một điều khó khăn; nhưng
ông coi tôi như là một người bạn rất đặc
biệt mà ông có thể thổ lộ tâm t́nh được.
Lần thứ hai trong chiều
nay, tôi cảm thấy xúc động trước những thái
độ cư xử đối với cá nhân tôi.
Cả Giáp và ông Hồ đều
biết rằng họ chỉ có thể chờ đợi ở tôi nhiều
nhất là một sự thông cảm và mối cảm t́nh.
Nhưng đồng thời tôi cũng thấy được họ đă
nhân cơ hội thuận lợi của buổi gặp gỡ cuối
cùng này để làm sáng tỏ chính bản thân họ và
sự nghiệp chính nghĩa của họ một cách tốt
nhất. Cho đến lúc đó, họ c̣n bị cô lập khỏi
thế giới Cộng sản, bị các cường quốc ích kỷ
bao vây chung
quanh, và họ chỉ thấy được số ít người Mỹ mà
họ đă có quan hệ giao tiếp. Người Mỹ lại
chính là những người đă thấy được các khó
khăn trong việc hoàn thành và duy tŕ nền
độc lập của dân tộc cũng do đó mà đối với
mối quan hệ không thể hiểu được này, người
Pháp ở Đông Dương đă khinh miệt, căm thù và
ra sức đả phá bằng mọi cách.
Tôi hướng câu chuyện vào
đề nghị mới đây của Pháp về một sự thoả hiệp
giữa người Việt Nam và chính phủ Paris.
Ông Hồ nhắc tôi nhớ lại
đề nghị khó hiểu của Alessandri để ông gặp
với D'Argenlieu.
Với mục đích ǵ? Ông Hồ đă làm
theo lởi khuyên
của tôi, nhưng ngay trước khi thu xếp được
cuộc gặp gỡ, người Pháp đă bộc lộ sự dối trá
của họ và thái độ coi thường hoàn toàn đối
với nền độc lập dân tộc Việt Nam. Họ đă đi
theo “những con
đường ṃn cũ” của những tên thực dân Pháp.
Ông Hồ nhận xét một cách châm
biếm rằng Sainteny, con rể của cựu Toàn
quyền Albert Sarraut không những đă chối từ
không chịu nói chuyện với ông trong tháng 7,
mà cả đến tháng sau, ở Hà Nội, Sainteny đă
tỏ ra hoàn toàn không có thiện cảm đối với
sự nghiệp chính nghĩa của người Việt Nam
trong khi hội đàm với Giáp.
C̣n về Alessandri?
Người Pháp đă dựng ông lên thành một “anh
hùng kháng chiến”. Nhưng
chống ai? Chống
Nhật ư? Hay chống chính ngay người
Việt Nam yêu nước? Nhưng chắc chắn là không
phải chống lại chính quyền Decoux hợp tác
với bè lũ Vichy và bọn phát xít Nhật. Lịch
sử mới đây c̣n ghi nhận vai tṛ của
Alessaildri là một người lănh đạo đă tích
cực tham gia vào chương tŕnh Mordant.
Chính những người Pháp
không được cải tạo này lại muốn nhân danh
“nước Pháp mới” để nói về tương lai của Việt
Nam. Cái tương
lai duy nhất mà họ muốn và sẽ thảo luận chỉ
là sự tiếp tục của một “xứ Đông Dương thuộc
Pháp” cũ, một vấn đề không c̣n có giá trị
nữa.
Tôi hỏi xem có phải ông
Hồ đóng kín cửa cho mọi cuộc đàm phán sau
này với nước Pháp không. Không, ông
nói, ông sẵn sàng thảo luận về các vấn đề
Việt Nam, nhưng những cuộc thảo luận như vậy
phải được xúc tiến trên cơ sở của ḷng tin
cậy lẫn nhau như những người b́nh đẳng, và
đó cũng không phải là như trường hợp hiện
nay.
“C̣n xung quanh vấn đề người Trung Quốc th́
sao?”, tôi hỏi
tiếp. Ông đứng dậy, quay
lưng lại và đi về phía cửa sổ. “Có
thể thấy trước được.”.
Trở lại ghế ngồi, ông
nói thêm, “một khi họ đă cuỗm được tất cả
cái ǵ họ có thể mang đi được, th́ họ sẽ rời
Việt Nam trở về Trung Quốc”. Nhưng,
trước khi rút lui, họ c̣n phải gây ra
tai hoạ cực kỳ to
lớn cho đất nước này, không những về phương
diện kinh tế mà c̣n cả về chính trị. Việt
Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội sẽ gây
chia rẽ giữa người Việt Nam với nhau, c̣n
các viên tướng Trung Quốc chắc chắn sẽ giao
dịch với người Pháp để gây ra những sự thù
nghịch đối với lợi ích tối cao của Việt Nam.
Ông Hồ lấy Nguyễn Hải
Thần, lănh tụ Đồng minh Hội làm ví dụ.
Ngày hôm trước, Thần đă đề nghị với ông Hồ
cụ thể “về một Hiệp định thống nhất” - một
chính phủ có cơ sở mở rộng gồm Đồng minh
Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Minh
cùng một ít đại diện các đảng Quốc gia khác.
Theo đó, ông Hồ sẽ
nhường chức Chủ tịch cho Thần, c̣n ông Hồ sẽ
đảm nhiệm chức Phó Chủ tịch và Cố vấn cao
cấp. Sẽ giao cho
mỗi đảng nói trên ¼ các Bộ trong Chính phủ,
phần c̣n lại sẽ chia cho các đảng phái nhỏ
khác. Ngược lại, ông Hồ, Việt Minh và
Chính phủ mới sẽ nhận được sự ủng hộ đầy đủ
nhất của Quốc dân Đảng (Trung Quốc) để chống
lại mọi cố gắng của Pháp nhằm chiếm lại Bắc
Kỳ.
Ông Hồ đă tiếp nhận đề nghị trên với nhiều
sự dè dặt và cũng không bác bỏ nó một cách
hoàn toàn. Thần đă không hay biết ǵ việc
ông Hồ đă biết rơ về cuộc điều đ́nh của Pháp
với Thần trong tuần lễ có liên quan đến sự
hợp tác Pháp - Hoa - Việt. Người Pháp đă cho
biết là ngay sau khi người Tmng Quốc rút về,
họ sẽ thực hiện bản Tuyên bố 24-3, và công
nhận một Chính phủ liên bang cho Đông Dương,
được đặt dưới h́nh thức này hay h́nh thức
khác, trong Liên hiệp Pháp và “theo những
điều khoản thuận lợi nhất cho người Việt
Nam”. Nếu lúc đó tồn tại
một Chính phủ không Cộng sản th́ chắc chắn
là nước Pháp sẽ công nhận ngay.
Tất nhiên Đồng minh Hội
và Việt Nam Quốc dân Đảng đều là chống Cộng,
v́ thế mà điều trở ngại chủ yếu sẽ được khắc
phục. Ư đồ của
người Pháp là muốn thấy Việt Minh bị vô hiệu
hoá, và họ dựa vào những người Quốc gia thân
Trung Quốc để làm việc này. Người
Pháp cho rằng Thần có thể thực hiện được
điều nói trên và họ đă điều đ́nh với Thần mà
họ đă lầm cho là một con người “mềm mỏng”
chứ không phải là một lănh tụ nhu nhược
ngoại hạng.
Cuộc điều đ́nh đă không phải không làm cho
tướng Tiêu Văn và Quốc dân Đảng (Trung Quốc)
hài ḷng, v́ cái mà họ sợ nhất chính là Hồ
Chi Minh do “Moskva đào tạo” và “Việt Minh
có xu hướng Cộng sản ghê gớm”.
Khi tôi hỏi ư kiến ông Hồ về đề nghị của
Thần, ông đáp lại dó là điều cũng có thể
nhưng không có khả năng tiếp nhận được.
Nó có thể làm tŕ hoăn
cuộc đụng đầu không thể tránh khỏi với người
Trung Quốc và hoặc với người Pháp.
Nhưng ông tỏ ra hoài
nghi đối với sự hợp nhất đă được đề ra và
gần như tin chắc rằng nếu không có sự lănh
dạo của Việt Minh th́ sự nghiệp đấu tranh
cho độc lập sẽ bị thất bại.
Đồng minh Hội hoặc Việt
Nam Quốc dân Đảng có thể duy tŕ cái vỏ bên
ngoài một chính phủ độc lập khi nào họ c̣n
được người Trung Quốc nâng đỡ. Nhưng
bất kỳ họ được dựng lên bằng cách nào đi nữa
th́ họ vẫn được đặt dưới quyền kiểm soát của
người Pháp, người Trung Quốc sẽ chỉ tiếp tục
ủng hộ họ trong điều kiện phù hợp với kế
hoạch bóc lột về kinh tế của Trung Quốc.
Người Trung Quốc chỉ
ngăn chặn người Pháp cho tới khi cuộc điều
đ́nh của họ giữa Paris và Trùng Khánh đạt
được thắng lợi.
Lúc đó họ sẽ rút lui và cái chính phủ bù
nh́n thân Trung Quốc sẽ bị bỏ rơi và bất lực
trong việc đụng đầu với đội quân Leclerc của
Pháp; và nước Việt Nam một lần nữa trở thành
thuộc địa Pháp.
Lương tâm không cho phép ông Hồ để xảy ra
t́nh trạng đó. Ông sẽ t́m ra phương
pháp để làm chủ được t́nh h́nh dù có phải ra
bưng biền chiến đấu, như ông dă từng gợi ư
trước đó vài hôm.
Đêm đă khuya, tôi chuẩn
bị xin rút lui; nhưng ông Hồ nói tôi nán
ngồi lại. Tôi lại
ngồi xuống, ông cảm ơn tôi v́ đă tỏ ra thận
trọng, đă không bao giờ giục giă, kèo nài
tin tức, đă tôn trọng và giữ kín đáo các ư
kiến của ông. Ông
cũng cảm tạ điều tôi đă không bao giờ hỏi
ông về bối cảnh hoạt động của ông, mặc dù,
ông biết rằng tôi cũng thông thạo nhiều giai
đoạn trong cuộc đời của ông. Ông mô
tả vắn tắt cuộc viễn du “khắp thế giới” của
ông cho tôi hay là ông đă ra đi từ lúc lên
10, hoặc ít tuổi hơn nữa.
Ông nói có một anh và
một chị, tỏ ra thương yêu sâu sắc bà mẹ già
và người chị gái, và cho rằng những người đó
đă có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng chính
trị của ông.
Trước đây tôi tưởng quê ông ở miền bắc Bắc
Kỳ, nhưng ông nói ông sinh trưởng ở một làng
nhỏ Trung Kỳ, Hoàng Trù, và lớn lên tại làng
Kim Liên, quê bố. Cha
ông đă trở thành một công chức nhỏ tại triều
đ́nh Huế. Khi ông
Hồ chưa đầy 8 tuổi, cha ông đưa cả gia đ́nh
vào sồng ở Huế vài năm, sau lại chuyển về
Kim Liên. Ông Hồ cũng nói một vài nét
về sự nghèo nàn của nông dân các thôn xóm
nhỏ dưới cái mà ông Hồ gọi là “chế độ cũ” và
cả về đời sống vô tích sự của giới quan lại
ở Huế.
Khi ông Hồ 15 tuổi, cha
ông lại trở về Huế. Ông Hồ đi học ở
đó và đă rất bực bội v́ kiểu cách
theo phương Tây
của người hiệu trưởng và một số thầy giáo.
Ông cho là họ kiêu căng,
nghiệt ngă và khinh miệt nông dân, công nhân
và dân buôn bán. Ông Hồ tả cho tôi
biết nhà trường lúc đó chỉ là “một cái vũng
nước chứa đầy tư tưởng của phương Tây đang
tuôn ra một nền triết lư thực dân để vun
trồng một mớ những tên đầy tớ ngoan ngoăn có
lợi cho nước Pháp”.
Trong những năm sau khi mẹ ông mất vào
khoảng 1900, ông Hồ không chịu đựng nổi sự
kiêu ngạo của người Pháp cũng như thái độ
thụ động của người Việt, nên đă quyết định
sang Pháp, đất nước của tự do, b́nh đẳng và
bác ái. Mùa đông 1911 -
1912, ông đă xin làm nhân viên trên một tàu
buôn Pháp ở bến Sài G̣n. Ông cho tôi
hay là đă lên dường như một thuỷ thủ và đă
xuống cảng Marseille. Những cảnh phạm tội,
cướp đoạt, giết chóc, đĩ thoă thường xuyên
của bến cảng đă làm ông vỡ mộng; ông buồn
rầu tự hỏi tại sao người Pháp lại không tẩy
trừ những giống quỷ quái đó của chính họ
trước khi họ muốn dạy dỗ và “văn minh hoá”
người Việt Nam. Nhưng
đồng thời ông cũng lại thấy được rằng nhân
dân Marseille đối xử với ông một cách lịch
sự, trong khi người Pháp ở Việt Nam đă rất
trịch thượng đối với người Việt Nam.
Ông Hồ cũng kể lại những
chuyến đi sau này tới Bồ Đào Nha, Italia và
Tây Ban Nha, nhưng ở đấy ông không bao giờ
vượt quá khư vực các hải cảng.
Ông đă đến nhiều cảng
Đông và Bắc Phi, và đă có một lần thăm Congo
và Madagassca. Ở đâu ông cũng quan
sát thái độ của người da trắng đối với người
châu Á và dân đa đen Phí Châu.
Đâu cũng giống như ở
Việt Nam. Ông nói với tôi: “Thực là
tồi tệ!”.
Tôi ṭ ṃ biết điều ǵ đă làm cho ông quyết
tâm lựa chọn con đường chủ nghĩa Cộng sản.
Ông Hồ cho biết ông đă
không đi thẳng ngay vào chủ nghĩa Cộng sản,
mà đă tới với triết lư Cộng sản thông qua
chủ nghĩa xă hội.
Trong thực tế, ông vẫn chưa coi ông là một
người Cộng sản thật sự mà chỉ là một người
“dân tộc - xă hội”. Ở Anh vào năm
1913, ông đă gặp một nhóm người châu Á, phần
lớn là người Trung Quốc và người Mă Lai đang
chống lại chủ nghĩa thực dân (chủ yếu là
Anh) và đă để nhiều th́ giờ trao đổi những
vấn đề giúp đỡ nhau tại câu lạc bộ “Các công
nhân hải ngoại”. Họ đă thảo luận về các cuộc
đàn áp chính trị của thực dân trong các
thuộc địa Anh, Pháp, Hà
Lan và Bồ Đào Nha. Ông Hồ nói rằng,
lần đầu tiên, ông đă thấy có thể làm được ǵ
đó để cải thiện số phận của nhân dân ở trong
nước ông và cũng chỉ bằng các hoạt động
chính trị phối hợp mới có thể làm cho nhân
dân Việt Nam được đối xử như một cái ǵ cao
hơn là những đầy tớ của Pháp. Ông quyết định
trở lại Pháp v́ được tin ở đó có một số trí
thức Việt Nam đă đề xuất ra những chương
tŕnh cải cách chính trị xă hội cho Việt
Nam.
Sau Thế chiến thứ nhất, ông
lao vào hoạt động
chính trị và gia nhập Đảng Xă hội Pháp. Ông
viết bài cho tờ báo xă hội, Le Populaire, về
các vấn đề Việt Nam và các vấn đề thuộc địa
nói chung khác.
Qua những buổi tiếp xúc ban đầu với giới
chính trị, ông đă gặp Jean Longuet, người
cháu của Karl Marx, Uỷ viên Nghị viện lập
pháp. Longuet đă khuyến khích ông tiếp tục
cộng tác, và với sự giúp đỡ của các nhà báo
tự do có cảm t́nh, ông Hồ đă viết cho báo
chí Xă hội và Cộng sản những bài chống chế
độ và thân Việt Nam.
Với một nụ cười như để cáo lỗi, ông Hồ công
nhận với tôi là mặc dù ông đă tham gia vào
tất cả các hoạt động chính trị nhưng thực ra
ông chỉ theo đuổi
một mục đích duy nhất nhằm cải thiện số phận
của chính nhân dân ông.
Bấy giờ, ông không thể hiểu được, mà cũng
không quan tâm đến phong trào và chính cuộc
quốc tế. Ông không hiểu rơ chủ nghĩa
Xă hội, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa Lao
công, và cả đến cái mà một đảng chính trị
phải làm. Theo ông Hồ, lúc đó trong đảng,
người ta thảo luận sôi nổi các vấn đề như
tham gia Đệ nhi Quốc tế, Đệ tam Quốc tế,
Công nhân và Phong trào thế giới, Đảng Xă
hội với cuộc Cách mạng Bolshevik tháng 10 và
vấn đề đi theo Đệ tam Quốc tế của Lénin.
Trong một thời gian dài,
ông nói ông lấy làm lạ về những ǵ đă diễn
ra trong Đệ tam Quốc tế, và chúng tôi đều
cười. Người ta
chỉ phát biểu về các phong trào thế giới,
các cuộc cách mạng vô sản v.v… và ông không
hề thấy ai nói tới vấn đề của thế giới thuộc
địa. Ông cảm thấy
thất vọng và mất tin tưởng.
Ai cũng có thiện cảm với
ông, họ đối xử với ông như một người b́nh
đẳng và gọi ông là “đồng chí” hay là “ông
Quốc”. Nhưng
những người bạn mới này vẫn coi vấn đề thuộc
địa là không quan trọng, một vấn đề nhỏ hẹp
chỉ sẽ được giải quyết ở mức thứ yếu.
Một hôm, ông Hồ nêu lên câu hỏi giản đơn xem
Quốc tế nào đă đứng về phía các dân tộc
thuộc địa và được một tâm hồn tốt lành nhủ
cho biết là: “Đệ tam” và người ta đă mang
tới cho ông bản Luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lénin.
Ông Hồ nói, “Đó là một bước ngoặt lớn trong
đời tôi!”.
Rốt cuộc ông đă t́m được
một điểm tựa. Ông vô
chung xúc động
bởi phong cách và sự hiểu biết sâu sắc của
Lénin. Ông trở thành một người đi đầu
theo chủ nghĩa
Lénin, tích cực tham gia các cuộc hội thảo
chính trị của đảng và mạnh mẽ lên tiếng ủng
hộ Đệ tam Quốc tế. Ông
đọc và nghiên cứu mọi tài liệu về vấn đề
thuộc địa và dân tộc mà ông gặp.
Ông được nhiều đảng viên
thông thái giúp đỡ và ông đă vận động Đảng
Xă hội gia nhập Đệ tam Quốc tế. Đến
Đại hội VIII Đảng Xă hội Pháp ở Tours tháng
12-1920, ông Hồ cùng với các phần tử cánh tả
trong đảng bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản
Pháp và xin gia nhập vào Đệ tam Quốc tế
(Comintern). Ông Hồ b́nh
luận với tôi là thực tế cũng có rất ít người
trong các giới chính trị quan tâm đến vấn đề
thuộc địa, nên ông thấy không có sự lựa chọn
nào khác. Ông Hồ
cũng đă lớn tiếng bày tỏ ông dă sai lầm như
thế nào khi nghĩ rằng người Pháp, Anh và
người Cộng sản Nga sẽ quan tâm đến vấn đề
Việt Nam. “Trong tất cả những năm
tiếp theo, không
một trong những phần tử gọi là tự do này đă
đi tới giúp đỡ cho các dân tộc thuộc địa.
Tôi đặt nhiều tin tưởng
vào Mỹ trong việc ủng hộ cho nền độc lập của
Việt Nam, trước khi tôi có thể hy vọng vào
sự giúp đỡ của Liên Xô”.
Ông Hồ nói rằng người Mỹ coi ông như là “bù
nh́n của Moskva”, “một người Quốc tế Cộng
sản”, chỉ v́ ông đă ở Moskva và nhiều năm ở
nước ngoài. Nhưng ông nói, ông không phải là
một người Cộng sản theo
nghĩa của Mỹ hiểu. Ông
không có một sự cam kết nào khác.
Ông tự coi ḿnh là một
nhà hoạt động cách mạng độc lập.
Nhưng nếu t́nh thế biến chuyển tới một điểm
cao, ông nói ông sẽ bắt buộc phải t́m kiếm
cho được đồng minh, nếu như đă chẳng t́m
được ai, nếu không thế th́ người Việt Nam sẽ
phải đi tới một ḿnh.
Đến lúc đó đă là quá
muộn và một lần nữa tôi lại đứng dậy xin cáo
lui. Ông Hồ kéo
chiếc đồng hồ cũ ra xem giờ và hỏi tôi ngồi
thêm một phút nữa được không?
Và tôi lại ngồi xuống.
Ông Hồ yêu cầu tôi mang về Mỹ một bức thư
đầy t́nh hữu nghị và ca tụng nồng nhiệt nhân
dân Mỹ. Ông mong rằng người Mỹ phải biết là
nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên Mỹ
là bạn và đồng minh. Họ măi sẽ biết ơn về sự
giúp đỡ vật chất mà Việt Nam đă nhận được,
nhưng điều quan trọng hơn cả là vấn đề tấm
gương lịch sử của nước Mỹ đă nêu cho Việt
Nam, trong cuộc đấu tranh của họ để giành
độc lập.
Ông Hồ tiễn tôi ra tận
cửa ngoài, cám ơn tôi đă tới và đă chịu nghe
ông “diễn thuyết”. Ông đặt hai
tay lên vai tôi
và chúc “Bon voyage!
Mong sớm quay trở lại. Lúc nào ông
cũng được chúng tôi hoan nghênh!”.
Khi xe nổ máy,
tôi nh́n lại vẫn thấy bóng nhỏ nhắn của ông
ở cửa, vẫy chào tạm biệt.
Tôi sực nhớ lại cuộc gặp
gỡ đầu tiên của chúng tôi trong một tiệm trà
ở Chiu Chou Chieh.
Ông hiện ra mong manh
đấy nhưng thực tế thật là bất khuất.
Chú thích
(1) Chúc lên đường may mắn
(2) Ba mươi năm sau, h́nh như Giáp vẫn c̣n
phân vân đối với mối thiện cảm và sự ủng hộ
của tôi với cuộc đấu tranh v́ độc lập của
nhân dân Việt Nam. Xem
“Những năm tháng không bao giờ quên”, Vơ
Nguyên Giáp.
(3) Trong năm 1945, vấn đề Lào và Cambodia
không bao giờ được coi như là những vấn đề
của các thực thể chính trị riêng biệt. Trong
bối cảnh cuộc đấu tranh v́ độc lập của nân
dân Việt Nam, tổ hợp 3 nước Đông Dương đă
được chuyển qua khái niệm Pháp thành “Liên
bang Đông Dương thuộc Pháp”. Trong những lần
khác nhau, tôi có hỏi Trường Chinh và Hoàng
Minh Giám để biết rơ vấn đề gơi Việt Nam là
một quốc gia mà lại dùng danh từ Đông Dương
để đặt cho Đảng Cộng sản Đông Dương. Cả hai
đă giải thích là ở đây không có ǵ mâu thuẫn
v́ từ khi 3 nước bị đặt dưới sự cai trị của
Pháp đă phát triển những đặt điểm chung về
địa lư, chính trị và quyền lợi kinh tế.
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures