Trang ChủKim ÂuBáo ChíLưu TrữVấn ĐềChính Nghĩa ViệtĐà LạtThư QuánDịch ThuậtTự Điển

Tác Phẩm Chính Nghĩa BBC LONDON HISTORY AUSTRALIAN RFI PARIS Chân Thiện Mỹ Tác Giả

ESPN3Sport TVMusicLotteryDanceSRSB RadioVideos/TVLearning

 

 

 

 

US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn

NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn

 

 

 

 

 

Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TẠI SAO VIỆT NAM ?

 

WHY VIETNAM ?

 

BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC MỸ

(Prelude to America’s Albatross)

 

TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti

 

Người dịch: Lê Trọng Nghĩa
 

 

Chương 34
Kết thúc nhiệm vụ


DẬP TẮT CÁC CUỘC XUNG ĐỘT
Tin tức từ miền Nam làm cho mọi người ở Bắc Kỳ lo ngại, trừ người Pháp. Họ hy vọng ở cú của Cédile, ở sự ủng hộ “sáng suốt” chính sách thực dân Pháp của Gracey, và ở các tin đồn đại về việc Leclerc sắp tới. Báo chí bí mật(1) của Sainteny thôi thúc người Pháp về triển vọng một cuộc giải phóng tức th́. Nó thổi phồng những tin tức về việc nắm chính quyền của Cédile, chuyện người Pháp anh dũng lật đổ “bọn cướp Việt Nam”, báo cáo về các cuộc hành quân thắng lợi “càn quét các ổ cướp Việt Minh”, và những tin thất thiệt về “lực lượng quân đội lớn” đang đổ bộ vào Phnom Penh, Cambodia với ư ngầm là quân Pháp đă lên đường qua phía cửa sau để giải phóng Bắc Kỳ. Mặc dù chẳng có lấy một chút sự thật nào trong đợt tuyên truyền này, nhưng dân Pháp ở Hà Nội và Hải Pḥng lại rất tin tưởng và phản ứng bằng cách tỏ ra hết sức tự tin và kiêu ngạo một cách trắng trợn, nên đă gây ra nhiều vụ xung đột nhỏ và một số vụ bắt bớ. Trước những hành vi thái quá của người Pháp, Chính phủ Hà Nội vẫn muốn t́m mọi cách tránh không để nổ ra một cuộc đụng độ. Ông Hồ đă chỉ thị cho Giáp ra lệnh cảnh cáo dân chúng Pháp.
Sáng ngày 26-9, nhiều biểu ngữ lớn đă xuất hiện trên các tường trong thành phố, với đầu đề “Tuyên cáo với dân chúng Pháp”. Nhiều truyền đơn mang nội dung lời tuyên cáo này cũng được phân phát cho cộng đồng người Pháp qua các ḥm thư, đưa tay hoặc thông qua các cửa hiệu Việt Nam. Đó là lời tuyên cáo chính thức do Giáp kư với tư cách là Bộ trưởng Nội vụ, thay mặt Chính phủ Lâm thời. Với những lời lẽ kiên quyết, tờ tuyên cáo nhắc lại các sự kiện đă xảy ra ở miền Nam, việc Pháp và Anh ngược đăi người Việt Nam, quyết tâm của dân chúng chống lại mọi sự đô hộ của nước ngoài để bảo vệ nền độc lập của ḿnh và nêu lên nhũng điểm chủ yếu:
“Một số người Pháp đă lên tiếng tỏ ra lo ngại cho sự an ninh… của đồng bào họ đang sống ở Bắc Kỳ. Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không tiến hành những biện pháp trả thù đối với người Pháp ở đây, và đă nhiều lần ra lệnh cho dân chúng Việt Nam phải b́nh tĩnh. Nhưng Chính phủ sẽ không dung thứ bất cứ hành động khiêu khích nào, bất cứ mưu toan nào nhằm làm hại đến nền an ninh và độc lập của đất nước, và sẽ không chịu trách nhiệm về những phản ứn sau này của nhân dân Việt Nam chống lại các hành động xâm lược của người Pháp ở Bắc Kỳ. V́ vậy, tôi (Giáp) khuyên những người này phái hết sức thận trọng trong lời nói cũng như trong hành vi của họ, và phải nghiêm ngặt tuân thủ các biện pháp được đưa ra để bảo đảm an ninh cho chính họ”.
Người Pháp đă coi khinh lời cảnh cáo này.Một số tù binh Pháp “từ Thành ra” đă xé các biểu ngữ ở phố Gambetta Jauré Guibéry, Paul Bert, và đă đánh những người Việt Minh đi phân phát truyền đơn. Thường dân Pháp đă ùa theo bắt chước họ và t́nh h́nh có nguy cơ bùng nổ.
Tôi đă được Tạ Quang Bửu báo ngay cho biết t́nh h́nh rối ren đó. Ông phản đối việc người Mỹ thả tù binh Pháp và cho tôi hay rằng Giáp rất lo lắng và bất b́nh. Bửu nói rằng việc phá rối trật tự rất có thể buộc Chính phủ phải có những biện pháp cứng rắn, có thể dẫn đến đổ máu - một việc vô cùng đáng tiếc. Tôi trả lời Bửu là theo chỗ tôi biết th́ không có lệnh nào của Mỹ cho thả tù binh, và yêu cầu báo cho Giáp biết là trong ṿng một tiếng sau tôi sẽ đến gặp ông ta.
Ngay lúc đó, tôi điện cho đại tá Nordlinger và yêu cầu ông cho tôi gặp ở cơ quan của Gallagher để thảo luận về t́nh h́nh đang xảy ra. Đề nghị của tôi h́nh như có làm phiền ít nhiều cho Nordlinger nhưng ông ta cũng nhận lời gặp tôi 10 phút sau. Tôi liền báo cho Gallagher biết là chúng tôi đến gặp. Trong khi đó, tổ phản gián X2 của chúng tôi cũng đă nhanh chóng xác định được nhiều tù binh nói trên là những lănh tụ của phong trào kháng chiến Mordant.
Tôi đến nơi th́ đă thấy Gallagher và Nordlinger đang chờ. Gallagher cũng đă thu xếp để sẽ gặp và nói chuyện với Lư Hán. Trên đường đến hành dinh của Lư Hán, tôi ngạc nhiên được biết trong tuần lễ này, Nordlingher đă ra lệnh cho các giám ngục Nhật ở trong Thành cho phép các tù binh được “về một ngày” với gia đ́nh ở Hà Nội. Tôi hỏi ông cho biết đă có bao nhiêu lần phép cho tù binh Pháp, ông ta không biết đích xác nhưng ước lượng có khoảng chừng từ 200 đến 300 lần phép mỗi ngày. Cả Gallagher và tôi đều kinh ngạc nhưng Nordlinger th́ cho đó chỉ là một biện pháp thông thường trong việc đối xử với các tù binh Đồng minh.
Lư Hán tiếp chúng tôi ngay. Ông ta cũng đă được báo cáo về t́nh h́nh hỗn loạn trên đường phố và đă ra lệnh cho các đội tuần tra vây bắt đám tù binh và đưa họ trở về Thành. Lư Hán yêu cầu Gallagher phải rút hết “phép cho về nhà” cho đến khi t́nh h́nh trở lại yên tĩnh và từ nay về sau các lệnh nghỉ phép phải do một sĩ quan Mỹ do tướng Gallagher chỉ định kư mới có giá trị. Từ hành dinh của Lư Hán, tôi điện báo cho Bửu và yêu cầu ông ta nói cho Giáp yên tâm là chúng tôi sẽ “nắm lại” tất cả tù binh Pháp, c̣n cảnh sát địa phương sẽ đối phó với các thường dân ngoan cố. Tiếp sau đó, không c̣n có nguy cơ bùng nổ nào khác.
Nordlinger đă thực hiện nhiệm vụ nhân đạo của ḿnh một cách chân thực và ông không h́nh dung được là ông thường bị người Pháp lợi dụng để nhằm đạt các mục đích chính trị của họ. Nhưng cũng không thể xếp ông vào loại “thân Pháp” như nhiều người Pháp trong thời kỳ đó đă làm. Ông là một trong nhiều người Mỹ biết tiếng Pháp ở Hà Nội, có nhiệm vụ chăm lo đến đời sống của các tù binh Đồng minh và dân thường trong khu vực này. Do đó, ông được người Pháp xem như là một cha tuyên uư, người che chở và phân phối các bổng lộc của Mỹ. Khi ông rời Hà Nội vào tháng 10, ông cũng tỏ ra quan tâm đến số phận của người Việt, và đă cho tiến hành phân phối một số lương thực cho họ cũng như cho người Pháp.
Ông trở về Mỹ vào tháng 12, mang theo một bức thư của Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Lâm thời, gửi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, nêu lên những khó nhăn ở Đông Dương và yêu cầu công nhận nền độc lập của Việt Nam. Bộ Ngoại giao đă có một thái độ lạnh nhạt, cho là Nordlinger hoạt động như là một đường dây liên lạc với một “Chính phủ” không được công nhận và bức thư đă được xếp vào loại “không có hành động tiếp theo”
ÔNG HỒ NẮM LẠI T̀NH H̀NH
Trong khi chúng tôi dập tắt những vụ xung đột nhỏ ở Hà Nội th́ ông Hồ cũng làm ngọn lửa đề kháng ở Nam Kỳ dịu bớt đi. Trong một bài phát thanh cho toàn quốc, qua Đài Tiếng nói Việt Nam ở Hà Nội, ông đă khôn khéo trực tiếp kêu gọi người Việt Nam cung như người Pháp. Ông nói “Đồng bào miền Nam thân mến!”, nhưng thực ra bài diễn văn của ông bao trùm tất cả.
Trước hết, ông chỉ trích Pháp về thái độ phản phúc, hèn nhát trước đây và những cố gắng hiện nay của Pháp để “thống trị nhân dân chúng tôi một lần nữa”. Về vấn đề người Pháp có ư cho rằng người Nam Bộ muốn quay trở lại nguyên trạng trước kia, ông nói “tôi tin tưởng và đồng bào chúng tôi trong cả nước cùng tin tưởng ở tinh thần yêu nước mạnh mẽ của đồng bào miền Nam”. Và, một cách rất thông minh, ông lái chuyển sang tấn công người Pháp. “Chúng tôi c̣n nhớ lời nói hùng hồn của một nhà cách mạng vĩ đại Pháp, “thà chết như một người tự do c̣n hơn sống như một kẻ nô lệ”. Ca tụng sự ủng hộ của đất nước đối với “các chiến sĩ và đồng bào đă hy sinh trong cuộc đấu tranh để giữ ǵn nền độc lập của dân tộc”, ông Hồ đảm bảo với các thính giả rằng toàn thế giới có thiện cảm với sự nghiệp của nhân dân Việt Nam(2).
Tiếp đó, ông nói thẳng với các nhà lănh đạo Pháp và Việt Nam ở miền Nam, “Tôi muốn nhắc nhở, đồng bào chúng ta ở miền Nam chỉ có một điều: ngay đối với những người Pháp bị bắt trong chiến tranh, chúng ta phải canh giữ họ một cách hết sức cẩn mật, nhưng chúng ta cũng phải đối xử với họ một cách rộng lượng. Chúng ta phải tỏ cho thế giới, và đặc biệt là cho người Pháp, biết là chúng ta chỉ muốn được độc lập và tự do, chúng ta không đấu tranh v́ hận thù và chống đối cá nhân. Chúng ta phải tỏ cho thế giới biết chúng ta là một dân tộc thông minh, văn minh hơn hẳn bọn xâm lược giết người”(3). Đây chắc chắn là những lời lẽ nhằm để hé cửa cho nối lại những cuộc thương lượng.
Lúc đó chúng tôi không nắm được dấu hiệu ǵ chứng tỏ rằng ông Hồ muốn nói với những người Việt Nam ở miền Nam đang bị bao vây và bài diễn văn đă đến như một tín hiệu bất ngờ. Đó cũng là lời tuyên bố công khai chính thức đầu tiên của ông Hồ với đồng bào Nam Bộ từ 26-8. Dưới ánh sáng của các sự kiện mới xảy ra, người ta có thể coi bài diễn văn như là một lực ép mạnh mẽ về chính trị trong Đảng.
Giàu và ông Hồ, cả hai đều là sản phẩm của một trường đào tạo lănh tụ cách mạng Nga, nhưng họ đă khác nhau khá xa trong các quan điểm về sách lược và phương pháp lănh đạo. Ông Hồ nghĩ đến thương lượng, thuyết phục, thậm chí cả thoả hiệp trước khi phải sử dụng đến bạo lực. Giàu là một người Stalinism thâm căn cố đế, một người Cộng sản chính thống và giữ quan điểm là chỉ có thông qua sự lănh đạo chính trị duy nhất, kỷ luật đảng và sự phục tùng mù quáng đối với sự lănh đạo của Việt Minh th́ nhân dân mới có thể giành thắng lời trong cuộc đấu tranh chống Pháp.
Sau vụ rối loạn ngày 2-9, ông Hồ và Uỷ ban Trung ương ở Hà Nội đă chỉ thị cho Giàu phải hoạt động có chừng mực, phải tiến hành đối thoại với người Pháp, những người Troskism, những đảng phải không Cộng sản và phải mở rộng cơ sở chính trị của Lâm uỷ. Nhưng Giàu đă không tự ḿnh chia sẻ lănh đạo với những người Troskism và chống Cộng. Ông đă nhường lại ghế của ḿnh cho Phạm Văn Bạch, nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát về quân sự(4).
Ông Hồ thấy không có khả năng tác động được đến Giàu và đưa các nhà lănh đạo miền Nam đi theo đúng đường lối, nên bằng bài diễn văn, ông đă ṿng qua Lâm uỷ để nói trực tiếp với nhân dân miền Nam. Trong khi dứt khoát ủng hộ cuộc đề kháng của nhân dân chống lại việc chiếm quyền của Pháp và Anh, ông Hồ cũng khuyên phải có mức độ và kiềm chế, mở rộng cửa cho việc điều đ́nh với những người Pháp có thiện chí. Bài diễn văn đă đạt được kết quả mong muốn. Ông Hồ đă khẳng định lại được quyền lănh đạo toàn quốc của ḿnh và thiết lập lại được mối quan hệ giữa miền Nam và Hà Nội. Trong những ngày tiếp theo, người ta thấy Bạch đă cố gắng t́m cách thương lượng với Cédile.
CUỘC ĐẦU HÀNG CỦA NHẬT
Ngày thứ Năm 28-9.
Khi tôi chuẩn bị đi dự buổi lễ đầu hàng của Nhật th́ nhận được lời chia buồn của cá nhân Hồ Chủ tịch về “cái chết không may của trung tá Dewey”. Giấy chia buồn do Nguyễn Văn Lưu(5) đưa tới. Tôi cảm ơn và nói sẽ gặp Chủ tịch ở dinh Toàn quyền. Lưu báo ngay cho tôi biết là ông Hồ không được khỏe và sẽ không dđến dự buổi lễ. Tôi ngạc nhiên và cũng không biết nên hiểu sự vắng mặt này như thế nào. Chiều hôm trước tôi có gặp ông Hồ và thấy ông khỏe, tuy vẫn ho như thường lệ. Tôi biết rằng ông cũng được mời dự lễ và chắc rằng ông đă nhận lời, nhưng thực ra tôi chẳng biết rơ ǵ cả.
Mọi công tác chuẩn bị đă xong, và Sư đoàn danh dự Vân Nam số 2(6) triển khai canh gác chung quanh dinh Toàn quyền. Đó là những đội quân Trung Quốc khá cao lớn, mặc áo chiến, mũ sắt, súng M.1 Mỹ có cắm lê được dàn ra dọc đường đá đến tận cổng ra vào dinh Toàn quyền. Ở phía ngoài, trên sân có nhiều toán sĩ quan Trung Quốc đứng, chờ tướng Lư Hán tới. Họ cũng lặng lẽ trong các bộ quân phục sặc sỡ, thắt lưng Mỹ mang kiếm đại lễ cán ngà bên lưng.
Đúng 10 giờ, tôi đến cổng dinh. Trong những trường hợp như lúc này, các quân cảnh Trung Quốc đă được thay thế bằng binh lính Sư đoàn Danh dự số 2, an ninh nghiêm ngặt. Sĩ quan kiểm tra giấy một cách cẩn thận, chào và mời tôi vào. Khi xe tôi tới đỗ ở thềm cửa, người ta mở cửa và một sĩ quan trẻ khác lại xem giấy tờ. Với vẻ hài ḷng, anh ta vời một sĩ quan khác đưa tôi vào pḥng khách chính và tới chỗ dành riêng cạnh các bàn dùng cho buổi lễ.
Trong pḥng có hàng trăm đại diện các nhà chức trách quân sự và dân sự Trung Quốc và một số ít người Mỹ. Tôi đă giúp cho sĩ quan của Lư Hán về các thể thức lễ nghi được ghi tên trong danh sách các vị khách đặc biệt. Trong danh sách này có tên tướng Gallagher cùng với các sĩ quan cao cấp bộ tham mưu của ông, có Hồ Chủ tịch và nội các của ông, tướng Alessandri và một đại biểu, tôi và 5 sĩ quan OSS khác, và các vị khách quư của cộng đồng người Hoa ở đây. Nhưng trong số nói trên, người Pháp và người Việt đă cố t́nh vắng mặt.
Trong pḥng đă được xếp khoảng 200 ghế ngồi đối diện với một cái bàn phủ vải xanh lớn, đằng sau có 3 ghế đệm cao cho người Trung Quốc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật. Trên tường phía sau có treo bức ảnh lớn của Tôn Dật Tiên. Trước bàn của người Trung Quốc là một bàn khác phủ vài trắng với 5 ghế thấp hơn dành cho người Nhật. Trên tường treo 4 lá cờ lớn, Mỹ và Liên Xô bên phải, Trung Quốc và Anh bên trái. Trên cửa và các cột trong pḥng cũng có những chùm 4 cờ nhưng nhỏ hơn. Không có cờ Pháp cũng như cờ Việt Nam ở trong và ngoài dinh.
Đến 10 giờ 30, tướng Tsuchihashi và 4 sĩ quan cao cấp Nhật (không mang vũ khí) vào pḥng và tới trước bàn phủ vải trắng. Họ coi như không thấy ghế dành cho họ và vẫn đứng. Tsuchihashi ở giữa. Với một điệu bộ trịnh trọng, ông đặt mũ lên trên bàn và chú ư sửa lại cho ngay ngắn với cả hai tay. Các sĩ quan khác cầm mũ của ḿnh trong tay phải.
Từ một cửa vào khác cạnh chiếc bàn xanh, tướng Lư Hán, tướng Linh(7) và tướng Mă lần lượt vào pḥng và ngồi vào bàn trước mặt người Nhật. Những người này khẽ cúi đầu chào.

Người phiên dịch Trung Quốc đọc cho viên tư lệnh Nhật nghe các điều khoản đầu hàng của Đồng minh. Tsuchihashi và các sĩ quan đứng nghiêm lắng nghe. Người phiên dịch đưa bản tài liệu để người Nhật kư. Tướng Tsuchihashi không đọc, kư rồi trả lại bàn tài liệu và nghiêng ḿnh cúi sâu ḿnh hướng về phía Lư Hán. Người Trung Quốc tiếp nhận cái chào một cách sơ sài và thản nhiên cho người Nhật rút lui không một lời b́nh luận. Người Nhật ra thẳng, không hề liếc nh́n ra các phía.
Sau khi người Nhật đi khỏi, Lư Hán đọc Bản tuyên bố nói về các điều khoản đầu hàng và trách nhiệm của Trung Quốc ở Việt Nam. Người phiên dịch Trung Quốc liền dịch Bản tuyên bố đó sang cả tiếng Pháp và tiếng Việt, mặc dù người Pháp và người Việt đều không có mặt ở đó, và buổi lễ kết thúc.
Buổi lễ rất quan trọng này của Lư Hán cũng đă không mang lại được thay đổi ǵ lớn cho Hà Nội. Tsuchihasshi vẫn tiếp tục làm vai tṛ của người sĩ quan cao cấp Nhật để xúc tiến nhiệm vụ giải giáp và tập trung đội quân bại trận của ông về các địa điểm chở lên tàu. Lính Nhật vẫn tiếp tục giúp đỡ cho quân Trung Quốc gác tù binh Pháp trong Thành và các nhân viên kiểm soát của Nhật vẫn ở lại vị trí cũ của họ trong Ngân hàng Đông Dương.
Sau buổi lễ, có tổ chức chiêu đăi ngắn trong pḥng bên cạnh và tôi cũng có dịp để thảo luận với tướng Gallagher về sự vắng mặt của người Pháp. Ông cho biết Alessandri đă yêu cầu Lư Hán cho treo cờ Pháp cùng với các cờ của Đồng minh, nhưng Lư Hán từ chối với lư do việc treo cờ Pháp chắc chắn sẽ gây rắc rối. Alessandri đă yêu cầu Gallagher can thiệp giúp và nêu ra với Lư Hán là cờ Pháp đă được treo trong buổi lễ ở Tokyo và Manila. Nhưng Lư Hán cương quyết không chịu, nói là ở các nơi đó không có phong trào chống Pháp, và nhấn mạnh rằng ở Sài G̣n chỉ việc trương cờ Pháp ra cũng đă đủ là tín hiệu cho quần chúng nổi dậy và gây ra đổ máu. Hơn nữa, việc Alessandri là đại diện chính thức của Pháp cũng “chưa rơ ràng”. Tôi lại nh́n sự bất đồng như là biểu hiện của việc cá nhân Lư Hán ác cảm với người Pháp, và ở đây ông chỉ muốn làm nhục Alessandri. Ông đă từ chối không để cho Alessandri được ngồi trong khu vực các quan khách chính thức, mà đă dành cho ông ta ghế số 115 trong khu vực của các vị khách không chính thức. Theo tôi, đó là một điều xúc phạm đến uy tín của Pháp nói chung và của Alessandri nói riêng.
Lại c̣n một vấn đề rắc rối khác nữa. Tại sao ông Hồ lại không đến? Trong buổi chiêu đăi, tôi thấy có nhiều người Việt nhưng h́nh như họ đến dự với tư cách là người không chính thức. Họ đi cùng với những Hoa kiều có thế lực ở địa phượng được xác nhận là thuộc Đồng minh Hội của Nguyễn Hải Thần. Tôi b́nh luận việc ông Hồ vắng mặt với đại tá Hsei Chun Yie( 8 ) và ông ta cho biết ông Hồ được chính cá nhân Lư Hán mời như là một vị khách đặc biệt. Nhưng đến phút cuối cùng, ông Hồ đă chối từ v́ “lư do sức khỏe”. Hsei giải thích là ông Hồ và Chính phủ của ông không có quy chế chính thức ở Trùng Khánh nên không thể nào xếp ông ta trong hàng ngũ đại diện các nước Đồng minh.
CUỘC HỢP NHẤT ĐANG H̀NH THÀNH
Sau này tôi mới biết Lư Hán không thể công khai thừa nhận ông Hồ và không biết tới các lănh tụ của các nhóm Quốc gia khác, chính v́ lúc đó đang diễn ra các cuộc thương lượng bí mật để hợp nhất Việt Minh và Đồng minh Hội. Tiêu Văn, theo chỉ thị của Trùng Khánh, ủng hộ Nguyễn Hải Thần; nhưng Lư Hán lại không muốn cắt đứt với ông Hồ, nên đă ép Tiêu phải cho xúc tiến một cuộc hợp nhất.
Bước đầu tiên để đi tới cuộc hợp nhất được tiến hành vào buổi sáng sau ngày lễ đầu hàng, qua cuộc gặp giữa ông Hồ và Thần do Tiêu tổ chức, tại trụ sở(9) của Đồng minh Hội. Ở đó, lần đầu tiên cờ của Đồng minh Hội được trưng ra ở Hà Nội. Một số đông quần chúng đă tụ tập chung quanh để hoan hô hai người. Cũng đă xảy ra cuộc ẩu đả giữa người của hai phe. Cảnh sát địa phương và quân đội Trung Quốc phải can thiệp, nhưng đă không có xô xát nghiêm trọng.
Cuộc gặp kéo dài khoảng 30 phút và cả hai người ra về đều mỉm cười vui vẻ. Không có tuyên bố công khai, nhưng chỉ một giờ sau đó, trên dường phố đă thấy lan ra hai luồng dư luận khác nhau. Những người theo Thần vui vẻ cho biết ông Hồ sẽ “xuống nước” để nhường chỗ cho Thần và chỉ giữ chức “cố vấn quốc gia”. Những quan hệ Việt Minh của tôi cho tôi biết là không đạt được quyết định nào trừ việc ông Hồ mời Đồng minh Hội tham gia với Việt Minh vào trong một chính phủ mới sẽ do nhân dân bầu trong cuộc tổng tuyển cử dự định tiến hành vào ngày 23-12(10). Tin đồn c̣n được tăng thêm hương vị qua một câu chuyện được truyền đi rộng răi, chắc là do người của Thần, rằng Quốc dân Đảng (Trung Quốc) đă chi cho Thần về vấn đề này 7 triệu đồng, nhưng một nửa số tiền đă bị Tiêu Văn chiếm lấy để tiêu riêng. Điều này chỉ làm suy yếu vị trí của Thần ở chỗ như thể là ông đă được chuẩn bị để cộng tác với Việt Minh trong việc thành lập một Chính phủ liên hiệp. Câu chuyện này thật hư như thế nào, tôi không rơ. Nhưng biết rằng vào tháng 10, sau khi tôi rời Hà Nội, giữa các tướng Lư Hán và Tiêu Văn đă có một sự bất hoà nghiêm trọng về hoạt động của Đồng minh Hội và Tiêu Văn nhất thời đă bị rút bớt các nhiệm vụ chính trị của ông ta. Vào mùa thu 1945, có tin đồn Lư Hán đă cho bắt giữ Tiêu và đưa ông ta về Trùng Khánh nghỉ; nhưng theo các bản tin tức của Mỹ từ Việt Nam và Trung Quốc gửi đi th́ từ tháng 10-1945 đến tháng 10- 1946 Tiêu Văn vẫn c̣n làm việc.
TIN TỨC LỘN XỘN
Buổi lễ đầu hàng đến thật không đúng lúc và chỉ được báo chí địa phương thuật lại một cách b́nh thường.
Điều mọi người chú ư nhiều nhất là các sự kiện ở miền Nam sau cái chết của “đại tá”(11) Dewey. Trong 2 ngày, đài phát thanh và báo chí Sài G̣n, Huế, Singapore, New Delhi, và Trùng Khánh đưa tin tức rộng răi về vụ ám sát Dewey và nhữn tin tức này đă gây ra một sự lộn xộn lớn ở Hà Nội.
Người Pháp công khai lên tiếng chia buồn và tỏ thiện cảm đối với một người “bạn Đồng minh”, trong khi trong thâm tâm họ có vẻ hài ḷng về cái chết. Điều đó có thể lung lạc được t́nh cảm của công chúng Mỹ đối với “dân An na mít phản bội”. Người Việt Nam lại công khai lên án Anh và Pháp âm mưu kích động t́nh cảm của người Mỹ chống lại Việt Minh. Một số người Trung Quốc đứng đắn đồng ư với luận điểm của người Việt Nam, nhưng cũng rất nghi ngờ, cho đây là một mưu mô của Anh để gạt người Mỹ ra khỏi khu vực hoạt động của họ.
Điều làm cho câu chuyện của Dewey trở nên hấp dẫn đối với dư luận quần chúng chính là tiềm năng ảnh hưởng quốc tế của nó. Ở Hà Nội, người ta đặc biệt chú ư đến một bài phỏng vấn nói là của phóng viên Phale Thorpe ở Huế. Ngay trong ngày Dewey bị giết, có tin ông đă lên án “hành động của Anh ở Nam Kỳ là trái với luật pháp quốc tế (sic) và Việt Nam xứng đáng được độc lập”. Ông ta nói, ông ta sẽ trở về ngay Hà Nội để báo cho phái đoàn Mỹ ở đây những ǵ đă xảy ra ở miền Nam để tránh gây ra đổ máu ở Bắc Kỳ “…(và) cuộc xung dột Pháp - Việt cần phải được hoặc Mỹ hoặc Trung Quốc ngăn chặn lại”.
Như người ta đă biết, nhận định của Thorpe đă không bỏ qua vai tṛ của Pháp trong các sự kiện xảy ra ở Sài G̣n và bộ máy tuyên truyền của Việt Nam đă không bỏ lỡ cơ hội để tận dụng khai thác những tin tức này. Người Pháp c̣n đang bị nhức nhối về việc bị chính thức gạt khỏi buổi lễ đầu hàng, đă phản tuyên truyền lại: “Pháp không c̣n được coi như là một nước Đồng minh trong Liên hợp quốc nữa và người Mỹ đă góp phần làm nhục người Pháp ở phương Đông cũng như họ đă từng làm ở phương Tây”. Họ đă khôn ngoan tăng cường luận điệu tuyên truyền này bằng cách xuyên tạc các nhận xét của Thorpe làm cho nó giống như là một lời tuyên bố chính thức của Mỹ.
Đài Singapore đă tường thuật một cách tỉ mỉ việc Mounbauen bao che cho Gracey trước mặt Tổng trưởng Chiến tranh Anh, ngài Lawson. Báo chí Việt Nam và Trung Quốc đă nhắc lại tin của đài Singapore và đă nhấn mạnh vào lời tuyên bố của Lawson về chính sách của Anh, “trách nhiệm của Anh đối với đồng minh của ḿnh sẽ không dẫn đến cuộc đấu tranh cho người Pháp chống lại nhân dân Đông Dương”. Rơ ràng lời tuyên bố này đă được đưa ra do có sự chống đối mạnh mẽ trong nội bộ chính phủ Công đảng về việc ủng hộ về quân sự cho người Pháp đàn áp phong trào dân tộc Việt Nam, đi đôi với sự phản kháng dữ dội của Đảng Quốc đại Ấn Độ chống lại việc sử dụng binh lính Ấn phục vụ cho chính sách thực dân của De Gaulle.
Ngoài ra, sau bản tin của đài Singapore, đài Delhi lại thông báo Anh đă tung ra 2 sư đoàn Ấn Độ tấn công du kích Việt Nam ở Nam Bộ. Phản ứng tức khắc, Lâm uỷ Nam Bộ ra lệnh cho các đơn vị bộ đội của họ “phải cô lập các lực lượng Anh và Pháp bằng cách phá hoại cầu và đường”.
VỀ NHÀ
Trong mớ tin tức hỗn độn này, thật khó mà biết dược chính xác việc ǵ đă xảy ra, ngoài việc nổi bật lên khá rơ là cuộc chiến tranh Thái B́nh Dương ác liệt và lâu dài kết thúc không có nghĩa là đă mang lại hoà b́nh cho Việt Nam. Đối với họ, một cuộc chiến tranh mới đă bắt đầu. Nhưng nó đă không lôi cuốn chúng tôi vào đó. Chúng tôi đang trên đường trở về nước. Chiều ngày 29-9, tôi nhận được lệnh mà tôi đang chờ đợi. Cục t́nh báo OSS được “chuyển thuộc Bộ Chiến tranh và Ngoại giao kể từ 1-10” và ngày đó tôi cũng phải trở về Côn Minh. Đại uư Bernique và trung uư Swif sẽ cho đóng cửa cơ quan. Vào giữa tháng 10, tôi sẽ lên đường về nước. Helliwell về sau mấy ngày, c̣n Heppner th́ về Mỹ vào giữa tháng 11. Bộ chỉ huy Chiến trường Trung Quốc (CCC) cũng giải thể và tướng Gallagher và Bộ tham mưu của ông cũng chuyển đi nơi khác. OSS Trung Quốc chỉ c̣n lại một số ít cán bộ giao thời. Hoạt động t́nh báo của chúng ta tại Chiến trường Trung Quốc đă cáo chung một cách nhanh chóng, mà công chúng Mỹ cũng chẳng hay biết ǵ, nhưng họ đă phải trả một giá đắt cho sự lăng quên này.
Tôi dùng ngày cuối cùng ở Hà Nội, 30-9, để chuẩn bị túi bụi cho cuộc ra đi. Tôi quyết định việc xử lư các tài liệu và đặt kế hoạch an ninh, đề pḥng phải sơ tán trong t́nh huống khẩn cấp. Sau đó là những cuộc hội họp tiễn biệt với tướng Gallagher, tướng Lư Hán, tướng Mă… Tướng Gallagher mời cơm và chia tay với tôi một cách vui vẻ, trước khi tôi trở về nhà Gauthier. Ông Hồ mời tôi dự bữa cơm chiều hôm đó và tôi đă chia sẻ buổi tối cuối cùng của tôi ở Hà Nội với ông Hồ.
Chú thích:
(1) Báo Entente, lúc đầu do nhóm Sainteny in bí mật, sau được phép xuất bản công khai vào năm 1945 do Việt Minh kiểm duyệt.
(2) Hồ Chí Minh Tuyển tập
(3) Hồ Chí Minh Tuyển tập
(4) Cuối cùng, ông bị gọi về Hà Nội tháng 11-1945
(5) Chánh văn pḥng Bộ Ngoại giao, một cộng sự của Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng (Hồ Chí Minh là Bộ trưởng)
(6) Một đơn vị của quân Long Vân, dưới quyền của thiếu tướng Chao Yao Ming, tư lệnh Tập đoàn quân 52. Sư đoàn Danh dự số 2 là đơn vị Trung Quốc cuối cùng rời khỏi Việt Nam tháng 10-1945.
(7) Tư lệnh Tập đoàn quân 60 Trung Quốc
( 8 ) Bí thư và phụ trách lễ tân của Lư Hán
(9) tại số 23, phố Quan Thánh
(10) Tổng tuyển cử đă được tổ chức vào ngày 6-1-1946
(11) Dewey được truy phong Trung tá (Lieutenant Colonel). Tuy nhiên, trong giao tiếp quân đội Mỹ, cấp bậc Trung tá (Lieutenant Colonel) và Đại tá (Colonel) thường được gọi chung là Colonel. Giống như các cấp tướng đều được gọi chung là General.

 

 

 

 0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6  - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28  - 29 - 30 - 31 - 32 - 33

34 - 35 - 36

 

 


 

 

  1. http://www.chinhnghia.com/

  2. http://chinhnghiaviet.informe.com/forum/

  3. http://nguoidalat.informe.com/forum/

  4. http://chinhnghiamedia.informe.com/forum/

  5. http://huongduongtxd.com/internet_links.html

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Your name:


Your email:


Your comments: