US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Phần IV
HẬU QUẢ
Chương 36
Chim hải âu của nước Mỹ
I.
Ở Washington tôi đă thấy có những thay
đổi khá mạnh mẽ trong cảnh tượng sau
chiến tranh. Phần lớn những người cộng
tác cũ với tôi đă quay trở lại cuộc sống
dân thường, và trong cơ quan của OSS ở
cuối đại lộ Hiến Pháp chỉ có một số ít
văn pḥng c̣n tiếp tục mở cửa. Rơ ràng
có thể thấy ở đây đang diễn ra một sự
chuyển biến nổi bật sang một thời kỳ
nhàn nhă thảnh thơi. Khi tôi tới là vào
giữa tháng 11 và được vào làm việc trong
một cơ quan quan trọng, ở đó tôi có
nhiệm vụ khởi thảo kế hoạch về Đông
Dương và giữ liền lạc với Bộ Ngoại giao
và Bộ Chiến tranh. Trước một đống báo
cáo và điện tín dồn dập từ khắp nơi: Sài
G̣n, Hà Nội, Côn Minh, Thượng Hải và
Kandy gửi về, tôi cảm thấy ḿnh trở
thành lạc lơng và vô tích sự. Tất cả đều
báo hiệu trước một sự trở lại nguyên
trạng cũ ở Đông Dương. Việc chúng tôi
rời khỏi sân khấu khu vực này đă được
người ta coi như một sự chấp nhận chính
thức của Mỹ cho việc Pháp quay trở lại.
Trong giới chính quyền ở Washington,
những lời tuyên bố cao thượng trong thời
kỳ chiến tranh về tự do, công bằng và tự
quyết đă nhanh chóng bị ch́m ngập trong
cuộc xô đẩy vội vàng để đưa nước Mỹ trở
lại thời kỳ trước chiến tranh. Dĩ nhiên,
chúng tôi đă có một Tổng thống mới và
một Bộ trưởng Ngoại giao mới, nhưng cả
hai đều có thể bị khuất phục trước những
áp lực to lớn về chính trị - kinh tế từ
trong và ngoài nước. Ê kíp mới ở Nhà
Trắng đă không có ǵ gắn bó và phần lớn
cũng đă không tham gia vào cái viễn vọng
của Roosevelt về một thế giới hoà b́nh,
thoát khỏi mọi sợ hăi và thiếu thốn. Nền
chính trị đối nội và đối ngoại của chúng
tôi đang ở trong t́nh trạng hỗn loạn,
đầy rẫy những nghi ngờ, xung đột, đấu
tranh và ngập ngừng.
Sản xuất chiến tranh đă đột ngột dừng
lại và luồng nhân lực mới được giải ngũ
ào tới đă gây nên vấn đề không có công
ăn việc làm cực kỳ to lớn; sự bất lực
của công nghiệp nhằm nhanh chóng chuyển
các xí nghiệp sang sản xuất vật dụng
thời b́nh, đă làm cho giới lănh đạo nhà
nước hoảng sợ. Thị trường thế giới bị
tan vỡ và khủng hoảng làm tăng thêm các
khó khăn trong nước. Các nước châu Âu và
châu Á đúng trước nhiệm vụ phải phục
hưng đất nước, đang trông cậy vào nước
Mỹ vẫn c̣n được nguyên vẹn để cứu trợ và
lănh đạo họ trong việc khôi phục lại nền
kinh tế.
Từ trước Thế chiến thứ hai, chính sách
đối ngoại của Mỹ đă phản ảnh một thứ chủ
nghĩa bành trướng áp đảo trong lănh vực
tài chính và thương mại Chính sách tiềm
tàng này đă dẫn đến việc thiết lập một
cách không tự giác trên toàn thế giói,
một mạng lưới các khu vực ảnh hưởng kinh
tế, phục vụ quyền lợi các tập đoàn kinh
doanh và các giới kinh tài có đặc quyền
đặc lợi. Việc bảo vệ quyền lợi của các
tập đoàn đó đ̣i hỏi phải có những người
đại diện trung thành của họ tham gia vào
việc ấn định và thi hành mọi chính sách
và luật lệ của đất nước. Ngay trước Thế
chiến thứ nhất, Washington đă trở thành
nơi đất thánh của các thế lực muốn gây
ảnh hưởng trong Nghị viện, và của các
nhóm có đặc quyền đặc lợi. T́nh h́nh
đúng như điều Bộ trưởng Quốc pḥng C.E.
Wilson đă nêu ra sau Thế chiến thứ hai,
“Cái ǵ tốt cho hăng Général Motor, đều
là tốt cho đất nước”. Và cũng từ đó, các
nhà kinh tế học đă đề xuất ra cái học
thuyết là tư bản ngự trị trên tất cả và
phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào.
Những năm tháng trong Thế chiến thứ hai
đă khẳng định học thuyết này; các nhà
học giả đă rút ra được và suy tôn ư kiến
là nền an ninh quốc gia của Mỹ đă được
gắn chặt không thể gỡ ra được với sự
kiểm soát thị trường và tài nguyên bên
ngoài bằng liên kết trong nền thống trị
về chính trị và quân sự. V́ thế cho nên,
ngay trước khi danh từ “tổ hợp quân sự -
công nghiệp” ra đời, các cấp chóp bu
trong chính quyền chúng ta cùng với các
phần tử thống trị của tập đoàn kinh
doanh và ngân hàng, mang quân phục hay
thường phục, đă lớn tiếng kêu gọi phải
bảo vệ quyền lợi kinh tế Mỹ trên khắp
thế giới chống lại sự xâm lược của các
nước Xă hội chủ nghĩa.
Sau thất bại của các nước trong phe
Trục, chỉ có hai nước Liên Xô và Mỹ nổi
lên như là các siêu cường quốc, một t́nh
thế mà Tổng thống Roosevelt đă dự kiến,
nhưng Tổng thống Truman đă không muốn và
cũng không chấp nhận. Sự hợp tác trong
thời kỳ chiến tranh giữa hai nước đă
chấm dút và Liên Xô đă trở lại thành
nước thù địch đối với các nước không
Cộng sản, đặc biệt là Mỹ, như thời kỳ
trước chiến tranh. Các lănh tụ Liên Xô
tuyên bố “bọn con buôn chiến tranh” ở Mỹ
(giới trùm kinh tài) đang âm mưu chống
lại Liên Xô, việc khuếch trương chủ
nghĩa Cộng sản là cần thiết cho nền an
ninh Xô viết, và chủ nghĩa Cộng sản nhất
định sẽ chiến thắng chủ nghĩa Tư bản
trên phạm vi toàn thế giới.
Chính quyền mới theo dơi một cách lo
ngại sự bành trướng thế lực, tư tưởng và
kinh tế của Liên Xô vào Trung Âu và châu
Á. Và trong một mưu đồ tuyệt vọng nhằm
ngăn chặn “làn sóng đỏ”, không cho nuốt
chửng các đất đai phụ thuộc, Tổng thống
Truman đă không công bố chính sách ngăn
chặn và thi đua kinh tế, đặc biệt bằng
cách thông qua sự viện trợ cho các nước
kém phát triển. Điều này đă đặt các siêu
cường và các nước có quan hệ gắn bó với
họ vào một cuộc xung đột giữa chủ nghĩa
Cộng sản và chủ nghĩa Tư bản.
*
Trong những công văn đầu tiên chuyển qua
cơ quan của tôi, có một bức điện đề ngày
5-10 của Bộ trưởng Ngoại giao Acheson
gửi cho Roberton, đại biện Đại sứ quán
chúng ta ở Trung Quốc, báo cho ông ta
biết rằng Mỹ “không phản đối mà cũng
không ủng hộ việc thiết lập lại nền cai
trị của người Pháp ở Đông Dương”. Nhưng
Mỹ tỏ ra “hài ḷng” khi thấy quyền cai
trị của Pháp “được thiết lập trên cơ sở
của một kết luận trong tương lai về sự
ủng hộ của dân chúng đối với các yêu
sách của Pháp”. Đây chẳng qua chỉ là
nhũng lời quanh co, giả nhân nghĩa để
nhằm làm dịu bớt nỗi lo lắng của Pháp
đối với việc không tán thành của Mỹ.
Nhưng đă đến lúc Pháp phải giữ một vai
tṛ then chốt trong kế hoạch Mỹ nhằm
thực hiện một sự tập hợp đội ngũ chính
trị và kinh tế mạnh mẽ với Anh ở hàng
đầu ở châu Âu và châu Á. Trở ngại chủ
yếu vẫn là Charles De Gaulle. Sự thù
địch của Truman đối với ông này đă vượt
xa những sự bực bội của Roosevelt, và đă
phản ánh đúng thái độ chính thức của Mỹ
đối với nước Pháp. Tổng thống cho De
Gaulle là người nóng nảy, kiêu kỳ và
không dáng tin cậy về mặt chính trị. Ông
nghi ngờ những sự cố gắng của De Gaulle
v́ trong mùa đông 1944, đă có hành động
chập chờn giữa Đông và Tây qua việc De
Gaulle bay tới Mátxcơva để điều đ́nh về
một Hiệp ước hữu nghị với người Nga mà
một năm sau điều đó đă được coi như là
một thất bại hoàn toàn. Tổng thống cũng
được biết việc Stalin tỏ ra khinh miệt
ra mặt đối với “người Pháp suy đồi” và
Stalin đă phản đối việc mời người Pháp
tham dự hội nghị Yalta cũng như hội nghị
Postdam, việc cho đến cuối năm 1945, De
Gaulle vẫn tiếp tục theo đuổi sự ủng hộ
của Cộng sản ở trong và ngoài nước. Tổng
thống Truman cũng không lạ ǵ các luận
điểm được nhắc di nhắc lại của De Gaulle
nhằm cô lập nước Mỹ khỏi thế giới qua
chủ trương của ông cho rằng chỉ có thể
xây dựng sự thống nhất của châu Âu dựa
trên ba cực: London, Paris và Mátxcơva.
Truman tin chắc rằng De Gaulle sẽ ngả
theo Liên Xô nếu điều đó trùng hợp với
lợi ích của Pháp.
Ở đây cũng c̣n vấn đề De Gaulle luôn
luôn nhấn mạnh việc ông phải được đối xử
như đối với Mỹ, Anh và Nga trong một
châu Âu sau chiến tranh. Tháng 8-1945, ở
Washington, De Gaulle đă không hề giấu
giếm cái viễn cảnh một nước Pháp đảm
nhận vai tṛ lănh đạo khối Tây Âu chống
lại cả Liên Xô và Mỹ - mà chủ yếu là Mỹ.
Trong các cuộc đàm thoại về vấn đề này,
De Gaulle đă không che giấu mối bất b́nh
của ḿnh đối với ảnh hưởng của Mỹ, đă
gạt bỏ các nguyện vọng của Pháp trong kế
hoạch sau chiến tranh muốn được tái kiến
thiết lại đất nước trên sự hoang tàn của
Đức, và trở thành một trung tâm kinh tế
và công nghiệp ở châu Âu. Truman đă đặc
biệt phiền ḷng với cái tính tự cao tự
đại của De Gaulle trong việc đ̣i cho
nước Pháp quyền kiểm soát vùng tả ngạn
sông Rhin và quốc tế hoá vùng Ruhr, để
Pháp có phần trong sản xuất và phân phối
các tài nguyên vùng đó. Sau hết, khi vấn
đề các căn cứ quân sự Mỹ trong kế hoạch
pḥng thủ toàn cầu được nêu lên, De
Gaulle đă tỏ ra không tha thiết với việc
cho nhường lại hoặc hợp tác với Mỹ trong
vấn đề có liên quan đến đất đai của Pháp
- một điều mà Truman không quên một cách
dễ dàng. Trong bầu không khí chống đối
và không tin cậy đó, Truman không có ư
muốn viện trợ tài chính đặc biệt hoặc
ủng hộ chính trị cho Pháp, và thay vào
đó, đă gợi ư là tốt nhất Pháp phải loại
những người Cộng sản ra ngoài chính phủ
và đánh giá lại phương hướng hoạt động
của ḿnh trong tương lai.
Sau các cuộc hội đàm, De Gaulle có cảm
giác là Mỹ đă không đối xử với Pháp như
là một cường quốc hạng nhất, c̣n Truman
lại bị ám ảnh bởi những nghi ngờ nghiêm
trọng xung quanh xu hướng ngả về Liên Xô
và chủ nghĩa Cộng sản của Pháp. Đó thực
là một khởi điểm đáng buồn trong mối
quan hệ của Pháp - Mỹ sau chiến tranh.
Và, với những vấn đề quan trọng đó ở
tuyến đầu, trong quan điểm của Mỹ, tương
lai Việt Nam chỉ là một vấn đề hết sức
ngoài lề.
*
Dưới chủ trương của phương châm chỉ đạo
lúc đó, tôi thấy các báo cáo của các Đại
sứ quán chúng ta từ Paris và Trùng Khánh
gửi về đầy những mâu thuẫn. Chúng không
chỉ chống lại cái mà chúng tôi đă làm ở
Đông Dương, mà c̣n gây thiệt hại cho
quyền lợi quốc gia của chúng ta; nhưng
qua đó chúng tôi cũng thấy được rằng Nhà
Trắng đă biết được đến đâu, chẳng rơ có
ai chú ư đến vấn đề này không.
Đại sứ Caffery ở Paris báo cáo là ngày
22-9 ông đă có một cuộc hội đàm với
Philippe Baudet ở Bộ Ngoại giao Pháp.
Baudet đă mô tả Việt Minh “đă được tổ
chức ít nhiều theo chủ trương đường lối
Cộng sản” và “có liên lạc mật thiết với
Phái đoàn Xô viết tại Trùng Khánh”,
nhưng lúc đó ông cũng có ư kiến là “Việt
Minh không phải là một tổ chức Cộng
sản”. Baudet nói rằng ở miền Bắc Đông
Dương, đảng Cộng sản “đă ít nhiều biến
mất, không c̣n là đảng Cộng sản nữa và
đă thể hiện ra như là đă bị thu hút vào
trong Việt Minh”. Tôi rất ngạc nhiên khi
thấy bức điện từ Paris gửi về chỉ nhắc
lại những tin tức thất thiệt của Pháp,
trong khi mà qua suốt 6 tháng trước đây,
đă có rất nhiều báo cáo và điện tín liên
quan tới Đông Dương được gửi tới cho
Caffery ở Paris.
Để kết luận, Baudet đă bày tỏ với
Caffery “sự đánh giá sâu sắc của Pháp
đối với việc chuyên chở mà Mỹ đă giúp đỡ
ở Thái B́nh Dương” và nhấn mạnh vào tầm
quan trọng có được tàu bè “của người Anh
cấp để đưa sang Đông Dương số quân Pháp
cần thiết cho việc lập lại trật tự ở
đây”. Rơ ràng đó là những tàu bè mà
tướng Leclerc đă sử dụng để đưa quân đội
của ông ta tới Sài G̣n. Và sau đó, vào
tháng 10 và tháng 12, các tàu này đă
chuyển quân Pháp tới Hải Pḥng.
Ngày 15-1-1946, Bộ trưởng Chiến tranh đă
được Bộ Ngoại giao báo cho biết “việc sử
dụng các tàu chiến và máy bay mang cờ Mỹ
để chuyên chở quân đội của bất cứ nước
nào đến hoặc đi khỏi Nam Dương quần đảo
hay Đông Dương thuộc Pháp, cũng như việc
cho Pháp dùng các tàu bè trên để chở vũ
khí, đạn dược, và các thiết bị quân sự
tới các vùng này”, đều trái với chính
sách của Mỹ. Nhưng chỉ 3 ngày sau, khi
H.F. Mathews, thủ trưởng vụ châu Âu, xin
chỉ thị Acheson về việc Anh đề nghị
chuyển giao cho Pháp khoảng 800 xe jeep
và ô tô vận tải, lúc đó ở Sài G̣n và
trước đây Anh đă nhận được từ viện trợ
vay mượn. Acheson đă trả lời “Tổng thống
cũng nghĩ rằng chúng ta sẽ đồng ư cho
chuyển giao số xe” với lư do là việc
điều động các thiết bị này sẽ “không thể
thực hiện được”. Việc chuyển giao các
khí tài quân sự nói trên đă thể hiện rơ
ràng là các chỉ thị hiện hành đă được
uốn nắn lại.
Từ giữa tháng 11-1945 đến tháng 3-1946,
cơ quan tôi đă nhận được các bản sao của
nhiều bức điện và thư của Hồ Chí Minh
gửi cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại
giao, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng
viện, và Liên hợp quốc. Đó là những lời
khẩn thiết kêu gọi can thiệp vào Việt
Nam trên cơ sở những nguyên tắc đă h́nh
thành trong Hiến chương Đại Tây Dương và
v́ lư do nhân đạo. Các văn kiện trên chủ
yếu yêu cầu một sự ủng hộ chính trị
trong việc giành độc lập của người Việt
Nam, nêu ra ví dụ của Mỹ ở Philippin và
bày tỏ hy vọng là người Pháp sẽ noi
gương người Mỹ. Tôi hỏi Bộ Ngoại giao
xem các thư từ và điện tín này đă được
tŕnh bày chưa hoặc ít ra th́ cũng đă
được ai đó có thẩm quyền xem xét một
cách nghiêm chỉnh không; và tôi đă được
nói cho biết rằng “Chính phủ” Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà không được Mỹ công nhận
và sẽ là một điều không thích đáng “nếu
như Tổng thống hoặc một người có chức
quyền nào khác xem xét tới các tài liệu
đó”. Hơn nữa, Mỹ “đă cam kết” dựa vào
người Pháp hơn là dựa vào những người
Việt Nam Quốc gia để nhằm thực hiện
những bước đi xây dựng tiến tới nền độc
lập của Việt Nam.
Cuộc tuyển cử ngày
6-1-1946 đă bầu ra Chính phủ Liên hiệp
Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu
tiên, A.B. Moffat, đứng đầu Vụ Đông Nam
Á thuộc Bộ Ngoại giao có đến gặp tôi.
Ông hỏi những tin tức mật về Hồ Chí Minh
và tôi đă cung cấp cho ông những ǵ mà
tôi có. Rất nhiều, đặc biệt là công việc
ông Hồ làm ở Quốc tế Cộng sản
(Comintern) và sự tham gia của ông với
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng, trước
hết, tôi nhấn mạnh đến tính chất dân tộc
chủ nghĩa của ông Hồ - cái điều trước
tiên phải là một người Việt Nam yêu nước
rồi thứ đến mới là người Cộng sản.
Ông Hồ cố gắng một cách tuyệt vọng muốn
“đóng hàng” đất nước mới ra đời của ông
với các nước phương Tây và muốn xoá bỏ
những lời lên án của Pháp cho ông và
Việt Minh của ông là tay sai của
Mátxcơva, nhưng chúng ta đă không ghi
nhận tín hiệu đó của ông.
Khi tôi đang theo dơi kết cấu t́nh h́nh
ở Đông Dương th́ lại đúng là lúc tôi
phải tiếp tục những công việc khác không
có liên quan ǵ tới Viễn Đông. Nhưng
cũng chính v́ thế mà sự quan sát của tôi
tỏ ra đúng mức, và tôi vẫn hoàn toàn tin
tưởng rằng không có một sự chống đối nào
lại có thể làm cho Việt Nam chuyển hướng
khỏi cuộc đấu tranh v́ độc lập của họ,
dù cho họ phải trả bằng giá nào và điều
dó phải kéo dài đến đâu.
Thật đáng tiếc là chính đất nước chúng
ta đă không chịu nh́n nhận cho hết thực
tế này và đă không vạch ra được một
phương hướng có thể đáp ứng lại những
quyền lợi tối cao của chúng ta. Có thể
nghĩa là hoàn toàn đứng ngoài sự việc
trên và giữ vững một thái độ thực sự
trung lập, một cách cụ thể và theo quan
điểm đă được vạch ra của chúng ta.
T́nh h́nh Đông Dương diễn biến theo
chiều hướng đă được dự đoán. Người Trung
Quốc đă kéo dài thời gian đủ để “bóp
nặn” người Pháp được ở mức tối đa: từ
28-2 tới 14-3 năm 1946, Pháp đă phải kư
một loạt các Hiệp định nhượng lại các
đặc quyền đặc lợi trước chiến tranh của
họ ở Trung Quốc. Theo hiệp định 14-3,
việc rút lui của quân chiếm đóng Trung
Quốc sẽ bắt đầu vào ngày 15-3 và kết
thúc vào ngày 31, nhưng trong thực tế
th́ măi tới tháng 10-1946, đơn vị cuối
cùng của Trung Quốc mới rời khỏi Hải
Pḥng. Trong khi đó bọn tay sai thương
mại và tài chính của Tưởng đă triển khai
được một cách chắc chắn một cơ sở kinh
tế khá vững vàng để tiến hành bóc lột
Đông Dương trong một thời gian kéo dài
hơn 30 năm sau, như hiện nay chúng ta đă
thấy qua câu chuyện “thuyền nhân”.
Bị Mỹ bỏ rơi, không được thế giới Cộng
sản biết tới, lại bị người Tnmg Quốc
tham lam vô độ o ép, Hồ Chí Minh đă phải
đi tới chấp nhận một “Hiệp định” khá
mong manh, ngày 6-3-1946, không phải với
chính phủ Pháp, mà với một quan chức cấp
thấp hơn, đại diện cho giới quân sự ở
Đông Dương. Nhưng ông Hồ cũng đă sớm
thấy ngay là bản Hiệp định không có sự
phê chuẩn của Bộ Ngoại giao Pháp và các
điều khoản buộc Pháp phải công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà là một “quốc gia tự
do”, có “Nghị viện riêng, quân đội
riêng, và nền tài chính riêng của ḿnh”,
nên bản Hiệp định đó đă không bao giờ
được thi hành.
Thay vào đó, quân đội Pháp đă nhanh
chóng vào chiếm đóng Hà Nội ngày 18-3.
Và đúng một tháng sau khi chính thúc kết
thúc việc chiếm đóng của Đồng minh, quân
đội Leclerc (phần lớn do Mỹ viện trợ vận
chuyển, trang bị vũ khí và khí tài) đă
chiếm đóng các thành phố chủ yếu của
Việt Nam. Chính sách của Mỹ đối với Đông
Dương lúc đó đă ngả từ phương hướng
chiến lược thời chiến sang lănh vực kinh
tế chính trị của mối quan hệ giữa Mỹ và
Pháp.
Hiệp định 6-3 đă nhanh chóng dẫn đến Hội
nghị Đà Lạt (từ tháng 4 đến tháng 5). Ở
đó “bè lũ Sài G̣n” do D'Argenlieu, “một
Raesputin(1) người Pháp” cầm đầu, đă tạm
thời cắt rời Nam Kỳ khỏi Việt Nam. Tiếp
sau đó là Hội nghị Fontainebleau (tháng
7 đến tháng 9) tai hại. Ở đó, ông Hồ đă
kư kết một cuộc ngừng bắn nhưng nó đă
sớm chết yểu. Quyết tâm của ông Hồ cộng
tác với người Pháp ít nhất cũng trong
một thời gian, đă làm cho cả những người
Quốc gia thân Trung Quốc cũng như các
thế lực thực dân Pháp hoảng sợ. Việc
tiếp tục tồn tại của ông Hồ và Việt Minh
của ông có nghĩa là họ sẽ chết, và đó là
điều họ muốn tránh bằng bất cứ giá nào.
Qua những con đường có thế lực ở Trùng
Khánh và Paris, một chiến dịch chống ông
Hồ và Việt Minh lại được bung ra với
những thủ đoạn cũ, cho họ là những tay
sai trung thành của Mátxcơva.
Mùa hè 1946, những luận điệu tuyên
truyền này lan tới Washington, và trong
tất cả những ǵ chính thức nói đến ông
Hồ đều được gắn thêm chữ “Cộng sản”.
Ngày 5-12-1946, khi Moffat tới thăm Đông
Dương, Bộ trưởng Acheson đă có điện chỉ
dẫn trong trường hợp có thể gặp ông Hồ,
Moffat “phải luôn luôn nhớ rằng ông Hồ
đă được xác định là một tay sai của Quốc
tế Cộng sản…”, mặc dù vẫn tồn tại một
điều thực tế là dấu vết âm mưu do
Kremlin điều khiển đều có thể t́m thấy
được ở mọi nơi, trừ Việt Nam ra. Chúng
ta không có chứng cớ ǵ về mối liên lạc
Việt Nam - Mátxcơva. Liên Xô không những
đă không ủng hộ ông Hồ trong cuộc đấu
tranh giành độc lập trước đây, mà c̣n
không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà trong nhiều năm sau nữa.
Từ Fontainebleu “tay không” trở về, ông
Hồ lại phải đương đầu với sự phản đối
kịch liệt của các phần tử chống lại ông
trong Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng
minh Hội. Chúng ḥ hét kết tội ông là
“phản bội” và “hợp tác” yêu cầu ông từ
chức. Để tránh đổ máu và tranh thủ thông
qua được Hiệp định Fontainebleu, ông Hồ
cho triệu tập phiên họp thứ hai Quốc hội
để phê chuẩn bản Hiệp định đ́nh chiến và
do đó gạt bỏ trước được sự chống đối của
Pháp. Quốc hội đă biểu quyết tín nhiệm
ông Hồ và yêu cầu ông đứng ra lập nội
các mới.
Ngày 8-11, nội các mới được thành lập
gồm có 7 Cộng sản, 2 Dân chủ, 1 Xă hội,
1 Việt Nam Quốc dân Đảng, và 1 độc lập.
Như vậy là Việt Minh vẫn nắm trọn quyền
kiểm soát lúc đó, những cuộc ngừng chiến
th́ chỉ kéo dài vừa vặn 70 ngày.
Kết thúc của cuộc ngừng bắn bắt đầu từ
hôm 20-11, khi nổ ra một cuộc xô xát vũ
trang ở Hải Pḥng giữa Hải quân Pháp với
bộ đội Việt Minh xung quanh vấn đề thuế
quan. Hai bên bắn nhau trong 2 ngày
trước khi đi tới một cuộc dàn xếp ở địa
phương. Nhưng đô đốc D'Argenglieu, lúc
đó đang ở Paris, tức giận về cái ông ta
cho là một sự xúc phạm của người Việt
Nam, đă điện cho thiếu tướng J. Valluy,
người phó của ông ta ở Sài G̣n, phải
“dạy cho bọn An Nam một hỗn láo này một
bài học”. Ba ngày sau, Pháp gửi một tối
hậu thư cho các nhà chức trách Việt
Minh, bắt trong ṿng 2 tiếng đồng hồ
phải rút hết quân đội ra khỏi khu vực
Hải Pḥng. Khi điều đó bị bác bỏ, quân
Pháp được pháo từ chiếm hạm Suffren
ngoài khơi bắn yểm hộ, đă tấn công vào
khu vực Hoa kiều trên bến cảng, gây
thương vong khoảng 25.000 người trong đó
có 6.000 người chết.
Bị bất ngờ trước cuộc tấn công tàn bạo
của Pháp, nhưng ông Hồ vốn là người muốn
thương lượng điều đ́nh, nên đă cố gắng
t́m cách tránh một cuộc đụng độ toàn
diện và kêu gọi người Pháp ngừng bắn.
Giới quân sự Pháp, được khích lệ bởi
việc D'Argrenglieu khinh thường ông Hồ
và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
của ông, đă t́m được một cái cớ để phá
vỡ hiệp định Fontainebleau nên dă không
đếm xỉa tới lời kêu gọi hoà hoăn của ông
Hồ, lại cho tăng thêm các cuộc đánh phá.
V́ vậy ngày 19-12, đội Tự vệ địa phương
đă phá huỷ nhà máy diện Hà Nội, báo hiệu
mở đầu cuộc tổng tiến công vào người
Pháp; ông Hồ và Chính phủ ông chuyển vào
rừng sâu. Thế là từ đó, cuộc chiến tranh
Đông Dương, được phát động từ ban đầu
bằng cú của Cédile ở Sài G̣n, nhưng ít
nhiều đă bị ḱm lại không mở rộng ra
ngay được v́ thực lực quân Pháp lúc đó
và chủ trương thương lượng của ông Hồ,
đă bắt đầu trở thành một thực tế có quy
mô toàn diện.
*
Trong khi người Việt và người Pháp phải
đương đầu với cuộc chiến tranh kéo dài
của họ, th́ quyết định của chúng ta giúp
đỡ người Pháp dưới h́nh thức viện trợ
quân sự, một sự viện trợ bắt nguồn từ
các yêu cầu kinh tế và các vấn đề chính
trị châu Âu, đă được trưng ra như một
quyết định về đấu tranh tư tưởng b́nh
thường - đó là vấn đề chống Cộng. Năm
1947, Hy Lạp đang bị rối loạn về kinh tế
và bị du kích Cộng sản tấn công. Nước
Thổ bị Nga làm áp lực bắt nhượng lại eo
biển Dardanelles. Những cố gắng này của
Cộng sản, nếu thành công sẽ mở rộng ảnh
hưởng của Liên Xô tới tận miền Đông Địa
Trung Hải. V́ thế, Tổng thống Truman đă
phải tuyên bố, trong cái mà sau này được
kêu là học thuyết Truman, “chính sách
của Mỹ là phải ủng hộ các dân tộc tự do”
chống lại sự xâm lược trực tiếp và gián
tiếp của Cộng sản. Kết quả là nhờ viện
trợ kinh tế Mỹ, Hy Lạp đă phục hồi lại
dược nền kinh tế, và nhờ viện trợ quân
sự Mỹ, đă đánh bại được các cuộc tấn
công của Cộng sản. Được viện trợ kinh tế
và quân sự của Mỹ hỗ trợ một cách mạnh
mẽ, Thổ đă chống lại được các yêu sách
kiểm soát Dardanelles của Nga.
Yêu cầu của nền kinh tế trong nước đ̣i
hỏi phải không ngừng sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm Mỹ dưới h́nh thức
thương mại hay viện trợ. Do đó, đến năm
1947, Bộ trưởng Ngoại giao Marshall đă
đề nghị cấp viện trợ kinh tế cho tất cả
các nước châu Âu, bao gồm cả Nga và các
nước phụ thuộc Nga. Ông nói “Chính sách
của chúng ta không nhằm chống lại bất cứ
nước nào hay học thuyết nào, mà chống
lại đói khát, nghèo nàn, thất vọng và
rối loạn”. Thực tế Mỹ chỉ muốn giúp cho
châu Âu thôi không phải xin các quỹ cứu
trợ tràn lan và ít hiệu quả của Mỹ nữa,
để khuyến khích phát triển một nền mậu
dịch hai bên cùng có lợi giữa Mỹ và châu
Âu, và cũng là để giảm nhẹ nguy cơ đe
doạ của Cộng sản ở Tây Âu, nhất là ở
Pháp và Ư. Những người nắm chính sách
đối ngoại của Mỹ sợ rằng nếu Tây Âu rơi
vào ṿng thống trị của Liên Xô th́ cùng
với nhau, họ sẽ thành một khối quân sự,
kinh tế cực kỳ mạnh, và sẽ gây nguy hại
một cách không thể tránh khỏi cho quyền
lợi quốc gia Mỹ trên toàn thế giới.
Trong 4 năm (1948-1951), Kế hoạch
Marshall, c̣n được gọi là Kế hoạch Phục
hưng châu Âu (ERP), đă cung cấp cho Tây
Âu 12,5 tỷ dollar, phần lớn cho việc chi
phí ở đây về thực phẩm, nguyên liệu và
thiết bị máy móc. Nhưng điều đó cũng đă
giúp giữ vững dược nền kinh tế của chúng
ta và đồng thời tăng cường được sự ổn
định chính trị ở các nước ngoài và làm
giảm được ảnh hưởng của Cộng sản.
Nga đă kết tội Kế hoạch Marshall là một
mưu mô của Mỹ nhằm giành quyền kiểm soát
kinh tế và chính trị châu Âu, và điều đó
chúng có phần đúng. Họ đă từ chối không
nhận một sự viện trợ nào cho họ, cũng
như cho các nước phụ thuộc họ, và đă đưa
ra một chương tŕnh viện trợ kinh tế
riêng tức là Hội đồng Tương trợ Kinh tế
(COMECON). Cuộc thi đua này lại càng
khiến cho Mỹ gia tăng nỗ lực mạnh hơn
nữa trong việc thống trị toàn cầu. Trong
bài diễn văn nhận chức năm 1949, Tổng
thống Truman khẳng định sự chống đối của
Mỹ với sự bành trướng của Liên Xô bằng
cách mở rộng ngoại viện Mỹ qua việc cung
cấp kỹ thuật, kiến thức và trang bị cho
các nước nghèo. Chương tŕnh mới, gọi là
Chương tŕnh Điểm Bốn(2), cũng khuyến
khích sự đầu tư mạnh mẽ của tư bản tư
nhân vào các nước kém phát triển với mục
tiêu cuối cùng là giành được sự ủng hộ
của họ.
Cuộc đấu tranh để giành lănh đạo về tư
tưởng và kinh tế giữa hai siêu cường đă
tràn sang lĩnh vực chiến lược vào năm
1948, khi thế giới tự do bị chấn động
bởi ba cuộc tấn công do Liên Xô sắp đặt
- đảo chính ở Tiệp Khắc, áp lực đối với
Phần Lan để nhập vào quỹ đạo Xô viết, và
cuộc khủng hoảng Berlin. Trong năm 1949,
Mỹ đă cùng 12 nước trong thế giới tự do
lập thành Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO), một hiệp ước pḥng thủ
chung, bảo đảm an ninh tập thể của các
nước, nhưng đồng thời cũng là một thị
trường tiêu thụ các khí tài chiến lược
mới do các nước chủ chốt trong hiệp ước
- Mỹ, Anh, Pháp và sau này có thêm Đức,
sản xuất.
Đến đó, một quy tŕnh đă được khép kín -
từ tư tưởng tới kỉnh tế (ERF, Điểm Bốn),
rồi chiến lược (NATO, sau đó là ANZUS và
SEATO). Và giống như trong cuộc xung đột
tư tưởng và kinh tế, Liên Xô đă trả đũa
bằng các liên minh chiến lược - Hiệp ước
Trung - Xô (1950) và Hiệp ước Varsaw
(1955).
Cũng phải đến tháng giêng 1953 mới có
một nhà lănh đạo Mỹ xác định một cách
trung thực quyền lợi quốc gia của chúng
ta như chúng đă và vẫn c̣n được ấn định
như hiện nay. Trong bài diễn văn nhận
chức của ông, Tổng thống Eisenhower
tuyên bố:
“Chúng ta biết rằng chúng ta gắn bó với
tất cả các dân tộc tự do không phải chỉ
đơn thuần bằng một lư tưởng cao thượng
mà bởi một nhu cầu khá giản đơn. Không
một nước tự do nào lại có thể bám giữ
măi lấy một đặc quyền hay được hưởng an
toàn trong sự cô lập về kinh tế. Nguyên
vật liệu của chúng ta có thể đáp ứng đầy
đủ cho mọi người, nhưng chúng ta cần thị
trường trên thế giới để tiêu thụ vật
phẩm dư thừa của các đồn điền và nhà máy
của chúng ta. Trái lại, chứng ta cần đến
những vật liệu và sản phẩm sống c̣n của
các vùng đất khác do chính ngay các đồn
điền và nhà máy đó. Quy luật cơ bản về
sự tương hỗ này, đă thể hiện quá rơ rệt
trong nền thương mại thời b́nh, sẽ được
áp dụng ở mức độ cực kỳ mạnh mẽ hơn nữa
trong thời chiến”.
Eisenhower đă nói rơ ra điều mà nhiều
người chúng ta đă biết nhưng cũng ít khi
chịu chấp nhận, đó là vấn đề quyền lợi
quốc gia chúng ta sẽ được phục vụ tốt
hơn hết bằng sự trao đổi thương mại, đặc
biệt là khi việc buôn bán này cung cấp
cho chúng ta những nguyên liệu (tài
nguyên nước ngoài) cần thiết để sản xuất
các vật phẩm có thể xuất cảng, làm ra từ
nước Mỹ và đem bán trên thị trường thế
giới.
Sự lo lắng về an ninh quốc gia của Mỹ đă
thể hiện qua việc Mỹ chống đối tích cực
với địch thủ chủ yếu của ḿnh là Liên Xô
trong việc tranh giành các vùng ảnh
hưởng trên thế giới.
Thoạt đầu, điều đó chỉ thể hiện một cách
duy nhất trong quần chúng như là một
cuộc chống đối với một khối Cộng sản
thống nhất. Nhưng thực tế đă không phải
như vậy, v́ những rạn nứt đă thỉnh
thoảng xuất hiện trong khối thống nhất
này; chẳng hạn như việc chính phủ Cộng
sản Nam Tư của Tito ly khai hoàn toàn
với Liên Xô năm 1948; và sau đó Tito đă
đ́nh chỉ viện trợ cho du kích Cộng sản ở
Hy Lạp.
Người Pháp đă thấy rất sớm họ cần phải
lợi dụng một cách tốt nhất những sự lo
sợ về tư tưởng lúc đó đang tồn tại ở Mỹ
như thế nào. Mối đe doạ Pháp có thể
“thành Cộng sản” đă mang lại những hậu
quả nhanh chóng. Việc phong trào quốc
gia Việt Nam bị gán cho nhăn hiệu là
“đỏ” hay “do Mátxcơva điều khiển” đă
hoàn toàn gạt bỏ mọi hành động của Chính
phủ Mỹ trong việc thăm ḍ các khả năng
mở được đường tới chính phủ Hồ Chi Minh.
Đó cũng là một h́nh thức doạ nạt đă được
thực hiện khá tốt trong một thời kỳ căng
thẳng.
Ngay sau khi nổ ra cuộc xung đột Pháp -
Việt, ngày 8-1-1947, Bộ Ngoại giao đă
điện cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho
Pháp biết rằng chúng ta có thiện cảm với
người Pháp, và sẵn sàng sử dụng “thiện
chí” của chúng ta để giúp thanh toán
cuộc tranh chấp. Ông cũng được phép báo
cho Pháp biết là Mỹ sẽ đồng ư bán vũ khí
cho Pháp “trừ các trường hợp tỏ ra có
liên quan tới Đông Dương”. Người Pháp đă
không để phải đợi trả lời. Ngay ngày hôm
đó, Đại sứ quán Pháp ở Washington đă
thông báo cho biết đánh giá của Pháp về
việc ông Achenson “đă có thái độ hiểu
biết trong khi thảo luận về vấn đề Đông
Dương”, và đă lịch sự gạt bỏ “thiện chí”
của chúng ta với một lời nói cạnh rằng
Pháp sẽ cố gắng giải quyết vấn đề của
ḿnh mà không cần tới sự giúp đỡ từ bên
ngoài “một khi Pháp được xác nhận lại
quyền lực của ḿnh”. Nhắc lại luận điệu
cũ về sự liên can của Mỹ trong việc Pháp
gặp rối ren ở Đông Nam Á, người đại diện
Pháp cho rằng Mỹ phải gánh phần trách
nhiệm về việc chậm trễ xác định lại
quyền lực của Pháp ở Đông Dương, v́
chúng ta “đă không đáp ứng những yêu cầu
viện trợ vật chất của Pháp vào mùa thu
1945”.
Về vấn đề Pháp hiểu lầm lập trường của
chúng ta ở Đông Dương và việc Pháp có
thể rút lui ở châu Âu, đầu tháng 2-1947,
Đại sứ Caffery đă nhận được chỉ thị phải
bảo đảm với Thủ tướng Ramadier về “những
t́nh cảm hữu nghị” của Mỹ đối với Pháp
và lợi ích của Mỹ trong việc giúp Pháp
khôi phục lại lực lượng kinh tế, chính
trị và quân sự. Sau khi đảm bảo với
Ramadier là Mỹ công nhận chủ quyền Pháp
tại Đông Dương, chúng ta đă đưa ra lư lẽ
là vấn đề thuộc địa này đă “lỗi thời”
rồi. C̣n đối với Hồ Chí Minh, Caffery đă
nhận được chỉ thị phải nói rằng chúng ta
không bỏ qua thực tế là ông Hồ “có những
mối liên quan trực tiếp với Cộng sản” và
hiển nhiên là “chúng ta không thấy có
lợi ích ǵ trong việc nền cai trị đế
quốc thực dân lại được thay thế bởi nền
triết lư và các tổ chức chính trị bắt
nguồn từ Kremlin và do Kremlin kiểm
soát”. Do đó, Mỹ đă lựa chọn lập trường
đứng ngoài cuộc xung đột và càng không
ngăn chặn Pháp trong vai tṛ xâm lược
của Pháp tại Việt Nam.
Nhưng chỉ vài tuần sau, chính sách Mỹ đă
được định h́nh. Ngày 13-5-1947, các nhà
ngoại giao của chúng ta ở Paris, Sài G̣n
và Hà Nội đă nhận được chỉ thị chính
thức sau đây:
“Lập trường chủ yếu trong nhận thức của
chúng ta là, ở Đông Nam Á, chúng ta nhất
thiết phải cùng thuyền cùng hội với
người Pháp, cũng như với người Anh và Hà
Lan… Chúng ta phải thấy rằng sự liên kết
chặt chẽ giữa Pháp và các thành viên
trong Liên hiệp Pháp không phải chỉ có
lợi cho các nước liên quân, mà c̣n có
lợi cho chúng ta một cách gián tiếp…
Đông Nam Á đang trải qua một giai đoạn
nghiêm trọng… với 7 nước mới đang trong
quá tŕnh đấu tranh hoặc thực hiện nền
độc lập hoặc nền tự trị. Các nước này
bao gồm 1/4 dân số thế giới và sự phát
triển tương lai của họ… sẽ là một nhân
tố hết sức quan trọng cho sự ấn định
toàn cầu. Đi theo với việc nền cai trị
của người châu Âu được nới ra… các nước
mới này có thể bị ch́m sâu vào những
cuộc bất hoà dữ dội… các xu hướng Liên Á
chống phương Tây có thể trở thành lực
lượng chính trị quan trọng nhất, hoặc
Cộng sản cũng có thể nắm lấy chính
quyển. Chúng ta cho rằng điều đảm bảo
nhất cho sự an toàn đối với các t́nh
huống có thể xảy ra nói trên phải là một
sự liên kết chặt chẽ được tiếp tục giữa
các dân tộc mới được tự trị với các
cường quốc đă từ lâu trước đây chịu
trách nhiệm về sự thịnh vượng của họ.
Đặc biệt chúng ta công nhận (rằng) người
Việt Nam trong một thời gian nhất định
vẫn c̣n cần tới sự giúp đỡ về vật chất
và kỹ thuật của Pháp cùng với một sự chỉ
dẫn sáng suốt về chính trị mà chỉ một
nước có truyền thống dân chủ lâu đời đă
được công nhận là biết tôn trọng nhân
quyền và giá trị cá nhân con người như
nước Pháp mới có thể đáp ứng được”.
Những người làm chính sách của chúng ta
ở Washington cảm thấy sẽ phải chịu một
sự tổn thất không thể tránh khỏi và cũng
không thể sửa lại được về các tài nguyên
quan trọng cho các nước phương Tây, nên
đă ra sức củng cố các cường quốc thực
dân. Và với một sự trắng trợn điển h́nh
gần như hốt hoảng, bản chỉ thị chính
thức tiếp tục viết:
“… Có chứng cớ là những người Cộng sản
Pháp đă được chỉ dạo phải tăng cường
hoạt động ở các thuộc địa Pháp dù cho
đến mức họ có thể mất sự ủng hộ của dân
chúng ngay trên đất Pháp; đó cũng là dấu
hiệu cho thấy Kremlin sẵn sàng hy sinh
những thắng lợi tạm thời với 40 triệu
người Pháp cho đường lối chiến lược lâu
dài về thuộc địa với 600 triệu dân chúng
các nước phụ thuộc; điều đó góp phần đ̣i
hỏi một cách hết sức cấp bách phải có
những sự nh́n nhận đi trước…
Bộ rất lo ngại, sợ rằng Pháp cho các cố
gắng của Pháp để t́m “những đại diện
thực sự” của Việt Nam rồi điều đ́nh với
họ để thành lập một chính phủ bất lực
theo kiểu chế độ Nam Kỳ, hoặc có thể có
mưu đồ phục hồi lại Bảo Đại (sic), với
những quyền dân chủ hạn chế để hỗ trợ
cho nền quân chủ, được coi là vũ khí để
chống lại chủ nghĩa Cộng sản”.
Cái bóng ma Cộng sản đang xâm nhập vào
các vùng đất từ trước đến nay vẫn được
coi là lănh địa của các nước dân chủ
phương Tây đă thúc đẩy Bộ Ngoại giao
chúng ta phải xem xét lại lập trường của
ḿnh. Mặc dù Mỹ vẫn chính thức coi cuộc
chiến tranh Đông Dương căn bản là một
vấn đề của Pháp, nhưng cuộc đấu tranh
lâu dài này lại tỏ ra có lợi cho những
người quốc gia Việt Nam - mà đó lại là
những người Cộng sản, nên Mỹ đă gợi ư
cho Pháp để họ có những nhân nhượng có ư
nghĩa đối với những người quốc gia Việt
Nam, đă chấm dứt sự ủng hộ đối với người
lănh tụ duy nhất hợp lư và có năng lực
là Hồ Chí Minh. Do đó, chính sách Mỹ đă
quay theo chính sách dùng biện pháp Bảo
Đại của Pháp chẳng phải v́ ông này là
một người Quốc gia có cỡ, mà chỉ v́ ông
này không phải là Cộng sản. Đến đây, rơ
ràng Mỹ đă ít quan tâm đến phong trào
dân tộc Việt Nam hơn là việc ngăn chặn
“làn sóng đỏ”.
Chính sách không can thiệp của Mỹ đă bắt
đầu chấm dứt từ năm 1949. Cũng vào tháng
giêng năm đó, Bắc Kinh rơi vào tay Cộng
sản Trung Quốc và Mỹ đă phản ứng một
cách gay gắt trước việc người Pháp thiếu
khẩn trương trong việc hứa cho Việt Nam
tự trị. Tiếp theo thoả hiệp Élysée (kư
tháng 3-1949), ngày 10-5, Bộ Ngoại giao
đă chỉ thị cho lănh sự Mỹ ở Sài G̣n phải
làm cho mọi người thấy là Mỹ mong muốn
“cuộc thí nghiệm Bảo Đại phải được xúc
tiến ngay sau khi ở đây đă thể hiện rơ
không c̣n có biện pháp thay thế nào
khác”. Mỹ c̣n tỏ ư sẵn sàng muốn đóng
góp bằng cách công nhận chính phủ Bảo
Đại, cung cấp vũ khí và viện trợ kinh tế
vào lúc thích đáng. Đó chỉ là cái mồi để
nhử Pháp khẩn trương hoạt động. Acheson
đă nhấn mạnh với lănh sự của chúng ta về
“sự cấp bách và cần thiết phải nhanh
chóng giải quyết cuộc xung đột giữa Pháp
- Việt trong khoảng thời gian ngắn ngủi
có thể c̣n lại trước khi Đông Dương bị
xáo động bởi những thắng lợi của Cộng
sản ở Trung Quốc”. Cái kiểu đối phó hàng
ngày gặp đâu hay đấy này của Mỹ, phản
ánh một nỗi lo sợ bẩm sinh đối với chủ
nghĩa Cộng sản, đă làm khổ nước này suốt
trong 1/4 thế kỷ tiếp sau đó trong những
mối quan hệ của chúng ta với Việt Nam,
và đó cũng là đặc tính chính sách đối
ngoại Mỹ trong sự giao dịch với Liên Xô
và thế giới Cộng sản.
***
Các sự kiện năm 1948 và 1949 ở Trung
Quốc đă mang lại cho Mỹ một sự cảnh giác
mới về sức sống mănh liệt của Cộng sản
châu Á; và Mỹ cảm thấy cấp bách phải
ngăn chặn họ lại. Các công cụ chính trị
Mỹ đă triển khai để đương đầu với những
thử thách quyết định của Cộng sản châu
Âu đă được áp dụng mà không có mấy thay
đổi với các vấn đề hoàn toàn khác biệt ở
Viễn Đông. Đồng thời với việc phát triển
khối NATO, Mỹ bắt đầu nghiên cứu xây
dựng khối an ninh tập thể châu Á. Các
chương tŕnh viện trợ kinh tế và quân sự
mới được ấn định và học thuyết Truman đă
hoàn toàn đạt tới những quy mô mới qua
việc được mở rộng sang các vùng mà các
đế quốc thực dân châu Âu đă bị tan ră.
Do đó vào những tháng cuối năm 1949,
phương hướng chính sách Mỹ là nhằm chặn
đứng sự bành trướng mới của Cộng sản ở
châu Á bằng tổ chức an ninh tập thể nếu
như người châu Á đă sẵn sàng, và bằng sự
cộng tác với các nước đồng minh châu Âu
chủ yếu và nếu có thể với các nước trong
khối Liên hiệp Anh, hoặc chỉ hợp tác tay
đôi nếu như cần thiết. Phương hướng
đường lối chính sách đó đă dẫn đến cuộc
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), đến
việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam
Á (SEATO) năm 1954, và việc can thiệp
ngày càng sâu của Mỹ vào Việt Nam.
Ngày 30-12-1949, Pháp đă kư một loạt các
hiệp ước về việc chuyển giao nền cai trị
trong nước cho Quốc gia Việt Nam của Bảo
Đại tiếp theo Hiệp định Élysée kư trong
tháng 3 trước. Vào tháng 1-1950, các đạo
quân của Mao tiến tới sát biên giới Bắc
Việt Nam, và Bắc Việt Nam cũng chuyển
vào quỹ đạo Trung - Xô. Ngày 18-1, Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và hai nước đă kư
một thoả hiệp thương mại ở Bắc Kinh về
viện trợ quân sự. Mười hai ngày sau,
Liên Xô cũng công nhận Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà. Báo chí Mátxcơva đă giải thích
một cách hài hước là Nga chỉ công nhận
một Chính phủ mà Pháp đă công nhận từ
năm 1946 mà thôi. Tại sao ông Hồ và Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà của ông lại không
được công nhận từ trước th́ không được
giải thích.
Ngày hôm sau (1-2), tiếp tục phản ứng,
Bộ trưởng Acheson công khai tỏ ra “ngạc
nhiên” về việc Kremlin công nhận Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và công khai nói
rằng hành động của Liên Xô “sẽ gạt bỏ
mọi ảo tưởng về cái gọi là thực chất
“Quốc gia” trong các mục tiêu Hồ Chí
Minh đang theo đuổi và tố giác ông Hồ
như là một kẻ tử thù của nền độc lập của
người bản xứ Đông Dương”. Hiển nhiên là
ông Acheson đă không thấy được rằng đă
hơn 1/4 thế kỷ nay, chỉ có Hồ Chí Minh
mới giữ cho ngọn đuốc độc lập bừng cháy
trong trái tim và khối óc những người
Việt Nam, Cộng sản cũng như không Cộng
sản; và duy nhất chỉ có ông đă trở thành
hiện thân của chủ nghĩa Quốc gia Việt
Nam - một George Washington Việt Nam.
Trong khi coi ông Hồ như một Washington
khác th́ cũng phải nói thêm rằng không
c̣n nghi ngờ ǵ việc ông là người lănh
tụ phong trào kháng chiến Việt Nam duy
nhất đă được quảng đại quần chúng tôn
sùng và cũng là người đứng đầu của phong
trào độc lập mạnh mẽ nhất và duy nhất có
quy mô toàn quốc. Ông đă từ lâu trở
thành “Bác Hồ” của người nghèo và b́nh
dân, với một ánh hào quang trên đầu là
tất cả các chế độ bù nh́n liên tiếp đă
không bao giờ có khả năng đánh đổ được.
Nhưng những sự thực đó đă tuột khỏi Bộ
trưởng Ngoại giao của chúng ta, ông ta
chỉ có kinh nghiệm cộng tác chặt chẽ với
các cường quốc thực dân châu Âu trong
việc miệt thị các dân tộc bản xứ thuộc
địa. Người ta đă thôi không gọi họ là
“dân bản xứ”, nhưng trong suy nghĩ th́
vẫn c̣n.
Việc nước Pháp chính thức thông qua vấn
đề cho Việt Nam “độc lập” được công bố
vào ngày 2-2. Xem xét kỹ th́ cái “độc
lập” này chỉ là một kiểu trưng bày mới
trong tủ kính mà đằng sau đó cơ cấu thực
dân cũ vẫn c̣n nguyên vẹn. Song le, cũng
vào ngày Pháp thông qua vấn đề này,
trong một bản giác thư gửi Tổng thống,
Acheson đă đề nghị chính thức công nhận
“ba chính phủ Việt Nam, Lào và Cambodia
được thành lập một cách hợp pháp”. Ông
mô tả ông Hồ là “một tay sai Cộng sản…
từ 1925”, là một người “đă quấy rối Pháp
từ đó đến nay” và ghi chú thêm là Trung
Cộng (ngày 18-1) và Nga Xô (ngày 30-1)
đă công nhận Hồ Chi Minh là người đứng
đầu Chính phủ hợp pháp ở Việt Nam… Ở
đây, một lần nữa đă phản ánh căn bệnh
chống Cộng cố hữu của chính quyền (Mỹ)
và một phản ứng tức th́ đối với các hoạt
động Trung - Xô.
Người ta có thể suy ra nhiều điều từ lập
luận của Acheson trong việc đề nghị Tổng
thống công nhận ngay các chính phủ bù
nh́n của Pháp. Trong chương IV bản giác
thư, ông nói rằng việc công nhận “tỏ ra
là được mọi người mong muốn và phù hợp
với chính sách đối ngoại Mỹ v́ nhiều lư
do. Trong đó có: khuyến khích các xu
hướng dân tộc không chịu sự lănh đạo
Cộng sản của các dân tộc các vùng thuộc
địa ở Đông Nam Á; thành lập những chính
phủ không Cộng sản ổn định trong các
vùng tiếp giáp với Trung Cộng; ủng hộ
một nước bạn, thành viên Hiệp ước Bắc
Đại Tây Dương; và một biểu thị không
bằng ḷng đối với các chiến thuật Cộng
sản…”.
Trong các lư lẽ này của
ông ta, chẳng ai có thể t́m thấy bất cứ
một sự liên tưởng nào tới các nguyên tắc
dân chủ, tự do, độc lập hay quyền tự
quyết của Mỹ. Trái lại, đây là một ủng
hộ mạnh mẽ đối với sự thống trị tiếp tục
của chủ nghĩa thực dân của một hội đồng
minh châu Âu, do dollar Mỹ tài trợ, và
phục vụ cho lợi ích tập đoàn đầu sỏ kinh
tế. Nguyên nhân cơ bản của cuộc xung
đột, vấn đề độc lập đối với sự thống trị
của nước ngoài, đă ngang nhiên được gạt
sang một bên để thích ứng với “một nước
bạn” và cũng là để đảm bảo cho ngay
chúng ta một vành đai chiến lược ở Đông
Nam Á. Quả thực đó cũng là một h́nh ảnh
khá lạ lùng của nền dân chủ Mỹ mà chúng
ta phô bày trước các dân tộc phụ thuộc.
Tuy vậy, ngày hôm sau Tổng thống Truman
cũng ưng thuận việc Mỹ công nhận Bảo Đại
và các quốc gia liên kết Đông Dương và
ngày 4-2, Tổng Lănh sự Mỹ ở Sài G̣n đă
nhận được chỉ thị chuyển đến Cựu hoàng
một bản thông điệp chúc mừng của Tổng
thông, đồng thời với sự công nhận về
ngoại giao chính phủ Quốc gia Việt Nam.
Người Pháp đă không để phí thời giờ
trong việc yêu cầu Mỹ viện trợ. Bực v́
Mỹ làm áp lực phải xúc tiến “giải pháp
Bảo Đại” và cho Việt Nam được quyền tự
trị lớn hơn, Pháp lại giở tṛ “bóp nặn”
của phương Đông. Ngày 16-2, Bộ Ngoại
giao Pháp gặp Đại sứ của chúng ta ở
Paris và nói toạc ra rằng “do kết quả
của t́nh h́nh phát triển mới đây (ở
Trung Quốc) và triển vọng ít ra th́
Trung Cộng cũng sẽ tăng cường viện trợ
quân sự cho Hồ Chí Ḿnh” nên t́nh h́nh
của Pháp đă trở nên cực kỳ nghiêm trọng.
Hơn nữa, “… cố gắng của Pháp ở Đông
Dương giống như một ḍng nước cuốn ở
Pháp, đ̣i hỏi cần phải có một chương
tŕnh giúp đỡ dài hạn mà chỉ có Mỹ mới
có thể cung cấp được. Nếu không… rất có
khả năng Pháp có thể bị buộc phải (xem
xét) chấm dứt các sự tổn thất của ḿnh
và rút lui khỏi Đông Dương”.
Vấn đề đă được đưa ra trước Hội đồng An
ninh Quốc gia và ngày 27-2 Hội đồng đă
đi tới kết luận “phải thi hành mọi biện
pháp có thể được để ngăn chặn sự phát
điển sau này của Cộng sản ở Đông Nam Á…
Thái Lan và Miến Điện có thể bị rơi vào
ách thống trị của Cộng sản nếu như Đông
Dương bị một chính phủ do Cộng sản khống
chế cai trị. Lúc đó sự cân bằng lực
lượng ở Đông Nam Á sẽ ở trong một t́nh
thế cực kỳ nguy hiểm”. Đây cũng có thể
là mầm mống của “thuyết domino”. Vấn đề
lại được chuyển cho Hội đồng Tham mưu
trưởng Liên quân; các Tham mưu trưởng
tán thành kết luận của Hội đồng An ninh
Quốc gia và đă kiến nghị với Bộ trưởng
Quốc pḥng cung cấp viện trợ cho Pháp ở
Đông Dương. Ngày 1-5, Tổng thống đă
nhanh chóng duyệt cấp một khoản tiền 10
triệu dollar khí cụ chiến tranh, lần đầu
tiên đánh dấu cái quyết định quan trọng
việc Mỹ tham gia về quân sự.
Từ đó, chẳng có thảo luận ǵ thêm, nhưng
một cách không thể nào thay đổi được, Mỹ
đă cam kết, ủng hộ chế độ bù nh́n của
Pháp trong cuộc chiến tranh chống lại
những người quốc gia Việt Nam và bảo vệ
quyền lợi thực dân của Pháp ở Đông Nam Á
trong tấn thảm kịch đang diễn ra, đó là
Việt Nam. Viện trợ Mỹ, bắt đầu một cách
khiêm tốn với 10 triệu dollar năm 1950,
đă vượt quá 1 tỷ dollar chỉ riêng trong
năm tài chính 1954, và lúc này đă chiếm
tới 78% chi phí về gánh nặng chiến tranh
của Pháp.
Mặc dù Bộ Ngoại giao chúng ta có một
nhóm khá mạnh thân Pháp, nhưng trong các
quan chức cơ quan đối ngoại cũng c̣n có
nhiều đầu óc thực tế, biết trước hết chú
trọng đến quyền lợi của nước Mỹ. Họ quan
niệm việc chúng ta tham gia vào đó, dù
đúng hay sai, chỉ như là biện pháp cần
thiết để ngăn ngừa Đông Dương không bị
rơi vào phe Cộng sản, chứ không phải để
giúp đỡ Pháp, một cường quốc thực dân
hay một đồng minh thành viên khối NATO.
Tuy vẫn theo đuổi mục đích cũ, nhưng các
phần tử này vẫn cùng với các nhà làm
chính trị khác trong chính quyền khuyến
khích Pháp trao hoàn toàn độc lập cho
các nước trong Liên hiệp.
Nhưng thực không may mà các mục tiêu
Pháp theo đuổi lại không trùng hợp với
mục đích của Mỹ nhằm phi thực dân hoá
Đông Dương và dựng lên một nước đệm
chống Cộng giữa Trung Cộng và các nước
Đông Nam Á. Suốt trong thời kỳ chúng ta
giúp đỡ cho nỗ lực quân sự Pháp
(1950-1954) người ta vẫn có thể nghe
thấy rơ những tiếng vang vọng của năm
1945 trong các mối quan hệ Mỹ - Pháp.
Như trong kinh nghiệm 1945, Mỹ đă lúng
túng không biết phải làm ǵ cho đúng.
Phái đoàn quân sự của chúng ta (MAAG) ở
Sài G̣n th́ nhỏ bé và bị người Pháp hạn
chế trong nhiệm vụ của một nhóm hỗ trợ
tiếp tế hậu cần. Tất cả các khoản viện
trợ Mỹ cho các quốc gia Liên hiệp chỉ
được cấp, với sự đồng ư và nhất thiết
phải qua tay Pháp. Sĩ quan MAAG không
được tự do phát triển công tác t́nh báo
thu tin trong quá tŕnh diễn biến cuộc
chiến tranh; tin tức t́nh báo do Pháp
cung cấp bị hạn chế, thường không xác
thực, có khi được cố t́nh làm sai lạc
đi. Người Pháp cưỡng lại với sự nhắc nhở
thường xuyên của Mỹ đ̣i phải xây dựng
các quân đội bản xứ các quốc gia Liên
hiệp và cả ngay khi những đội quân này
đă tồn tại th́ chúng cũng không thành
được một quân đội quốc gia Việt Nam thực
sự - đó cũng là một bài học mà chúng ta
đă không thuộc khi chúng ta trực tiếp
nắm vấn đề này.
Có một sự thực lịch sử là mỗi khi chúng
ta liều lĩnh t́m cách đi ngược lại sự
bành trướng của học thuyết Marxism,
chúng ta đều trở nên lúng túng và thực
tế phải đi tới chỗ phủ nhận cái nguyên
nhân đầu tiên của sự bất măn đă dẫn dắt
các dân tộc phụ thuộc tới việc tim kiếm
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù chúng
ta có thiện chí và cho rằng chỉ có h́nh
thức dân chủ của chúng ta mới là lời
giải đáp duy nhất đúng, chúng ta lại
không chịu chấp nhận cho các dân tộc
khác cái nguyên lư cơ bản của một nền
dân chủ - quyền dân tộc tự quyết. Xu
hướng các nhà lănh đạo Mỹ là dùng các
đ̣n bẩy kinh tế và quân sự để chống lại
“mối đe doạ” của chủ nghĩa Cộng sản,
nhưng trong mọi trường hợp cái đ̣n bẩy
này đă bị nổ tung ra. Và ở đâu chúng ta
thành công một thời gian trong việc áp
đặt được lối sống của chúng ta, th́
thông thường ở đó có bội bạc, phải trả
giá đắt mà vẫn khổ sở.
Khi những tiếng vọng của 1945 hăy c̣n
vang dội, chúng ta không thể không tự
hỏi: Đông Nam Á có thực là quan trọng
đối với quyền lợi an ninh của Mỹ năm
1950 không? Thuyết domino có đúng không?
Không có sự ủng hộ của dân chúng Việt
Nam, chúng ta có thể thắng trận được
không? Và khi chúng ta chiến đấu bên
cạnh nước Pháp, chúng ta có thể tránh
được vết nhơ của chủ nghĩa thực dân
không? Tuy các vấn đề này đang được bàn
căi, nhưng thực tế lúc đó và hiện nay
cũng đủ sức để trả lời “không” với mỗi
câu hỏi trên. Dưới ánh sáng kinh nghiệm
của chúng ta trong những năm 1940, cuộc
liên minh của chúng ta với Pháp trong
những năm 1950 và sự trực tiếp thiết
thực tham gia với Ngô Đ́nh Diệm và
Nguyễn Văn Thiệu đều là thuần tuư điên
rồ. Chúng ta chưa khi nào chịu t́m hiểu
tiếng nói của nhân dân. Mặc dù chúng ta
đă có một truyền thống huy hoàng chống
chủ nghĩa thực dân, có nguyên tắc tự
quyết của Wilson, và những lời tuyên bố
độc lập cho các dân tộc phụ thuộc của
Roosevelt, chúng ta đă bỏ ngoài tai
những lời kêu gọi của Việt Nam đ̣i giải
phóng khỏi ách thống trị của bên ngoài
và chế độ thực dân.
Sẽ quá dễ dàng khi nói rằng chính phủ
của chúng ta đă không được hiểu thực
chất của vấn đề Đông Dương; hoặc ở đó đă
không có được một lănh tụ quần chúng;
hoặc người Việt Nam không có năng lực tự
quản. C̣n Hồ Chí Minh, ngay với các bí
danh khác nhau của ông, ông đă được thế
giới phương Tây biết tới từ năm 1919.
Các quan chức Mỹ, cũng biết ông và việc
ông đă làm để thống nhất dân tộc trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập từ
1942, và đă theo dơi các thành tựu của
ông cho tới khi ông chết năm 1969. Những
người biện hộ cho Bộ Ngoại giao chúng ta
đă khó mà thanh minh được rằng họ không
biết tới tính cách dân tộc chủ nghĩa của
ông Hồ và sự ngay thật trong phong trào
giành độc lập dân tộc của ông. Nhưng
chính ngay những tập hồ sơ trong Bộ của
họ từ năm 1942 đă tiết lộ rằng ông Hồ và
Việt Minh là đặc biệt có tinh thần Quốc
gia và không có những cam kết dính líu
về chính trị với bên ngoài cho đến năm
1950.
Cho đến tận tháng 2-1950, những lời ám
chỉ thưởng quyên và thô lỗ nói ông Hồ là
một “tên Quốc tế” hay “phái viên của
Quốc tế Cộng sản” một cách không có
chứng cớ rơ ràng, đă tác động một cách
ngây thơ đến chính sách đối ngoại của
chúng ta và một lần nữa đă làm chúng ta
mất cơ hội để đi đến một cuộc hoà giải
với nhân dân Đông Dương. Tháng 5-1949,
Bộ trưởng Acheson, mặc dù chẳng có lấy
được một mẩu chứng cớ nào về các mối
liên lạc giữa ông Hồ với Kremlin, đă chỉ
thị cho đại diện Mỹ tại Hà Nội cảnh cáo
những người quốc gia Việt Nam để ngăn
chặn việc chấp nhận một sự liên minh với
ông Hồ, bằng những lời lẽ sau đây:
“Qua hiểu biết về quá tŕnh đào tạo của
ông Hồ, không thể có nhận định nào khác
hơn ông Hồ là “một tên” Cộng sản quốc tế
thực thụ v́: 1) rơ ràng ông Hồ đă không
thể chối căi được các mối liên hệ với
Mátxcơva và chủ nghĩa Cộng sản quốc tế;
và 2) là một cá nhân được đề cao trong
báo chí Quốc tế Cộng sản và dược họ ủng
hộ. Hơn nữa, Mỹ đă không hề bị xúc động
bởi tính chất dân tộc chủ nghĩa của lá
cờ đỏ với ngôi sao vàng (sic)”.
Đây chỉ là bước đầu để sau này ông ta
công khai tuyên bố ông Hồ “với bộ mặt
thật là một kẻ tử thù của nền độc lập ở
Đông Dương”. Mà điều này một lần nữa đă
khoá trước mọi quan hệ với ông Hồ vào
tháng 2-1950.
Dù cho ông Hồ là một người Quốc gia hay
một người Cộng sản đi nữa th́ vấn đề
cũng không phải ở đó. Sự việc là ở chỗ
trước hết ông là một người Quốc gia, và
thứ hai mới là Cộng sản. Ông quan tâm
đến độc lập và chủ quyền của Việt Nam
hơn là làm theo lợi ích và mệnh lệnh của
Mátxcơva và Bắc Kinh. Nếu có sự ủng hộ
của Mỹ, ông Hồ có thể đă chấp nhận một
h́nh thức trung lập nào đó trong cuộc
xung đột Đông - Tây và giữ cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà là một chướng ngại
trung lập và lâu dài chống lại sự bành
trướng của Trung Quốc về phía Nam..
Người Việt Nam đă chứng minh họ có một
mối lo sợ đối với sự đô hộ của Trung
Quốc. Họ sẽ c̣n tiếp tục như vậy. Và họ
có đầy đủ lư do riêng để hành động trong
khả năng làm một vật đệm. Ông Hồ có thể
phục vụ tốt cho mục tiêu rộng lớn hơn
trong chính sách của Mỹ ở châu Á, không
phải như những “con rối Cộng sản” dùng
để che mắt chúng ta.
Cuối thập niên 1940, nhiều tài liệu đă
được đưa ra để chứng minh về đường lối
lănh đạo của ông Hồ. Cũng có những tài
liệu cho rằng một chính sách khác của Mỹ
có thể khiến cho ông Hồ có đường lối
không đi theo và chống lại với Bắc Kinh;
nhưng một số người khác; trong đó có tác
giả lại nhấn mạnh và một kết quả tất yếu
là ông Hồ đă bị buộc phải phụ thuộc vào
Bắc Kinh và Mátxcơva chỉ v́ có sự chống
đối hoặc bàng quang của Mỹ.
Ông Hồ là một người Cộng sản; tự ông đă
nói với tôi như vậy và ông không hề chối
bỏ điều đó mỗi khi các nhà báo ngoại
quốc hỏi. Nhưng một người Cộng sản không
có nghĩa là ông bị cưỡng ép phải đặt các
mục tiêu, h́nh thức, và kỷ luật tổ chức
Quốc tế Cộng sản lệ thuộc vào việc giành
độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Đă
nhiều lần ông Hồ và các nhà lănh đạo
khác của Việt Minh đă cho tôi hay họ có
nhiều nghi ngại xung quanh vấn đề coi
chủ nghĩa Cộng sản là một h́nh thức
chính trị thích hợp với Việt Nam. Ông Hồ
đặc biệt không tin là người Việt Nam đă
đủ trưởng thành về mặt chính trị để có
thể chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản - nhưng
có thể một h́nh thức dân chủ xă hội chủ
nghĩa có cải biên sẽ là lời giải đáp
đúng đắn. Song dù cho về cuối những năm
1940, ông Hồ đă tỏ ra muốn xem xét tới
chủ nghĩa trung lập, việc gắn bó với
phương Tây, chủ nghĩa xă hội hay các
h́nh thức không Cộng sản khác, th́ ở đây
ông Hồ cũng chỉ đưa ra những sự lựa chọn
có mức độ. Ông đă không có liên lạc trực
tiếp với Mỹ từ 1946, và những tín hiệu
ông nhận được từ Washington có thể rất
không đáng phấn khởi. Vào năm 1947, các
trang bị quân sự Mỹ đă được quân đội
Pháp và Anh sử dụng để chống lại người
Việt Nam và Mỹ đă đồng ư cấp cho Pháp
một khoản tiền 160 triệu dollar để mua
xe cộ và các thiết bị máy móc sử dụng
trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Tháng
1-1947, Marshall chỉ công khai tuyên bố
mong muốn “cần phải t́m được một cơ sở
hoà b́nh cho việc hoà giải cuộc xung
đột”, nhưng kế hoạch Marshall cho châu
Âu đă tuồn các tài nguyên của Mỹ vào
nước Pháp một cách có tính chất quyết
định. C̣n sự chi viện của người Nga về
mặt vật chất th́ không nhiều hơn. Trong
khi người Xô viết chỉ trích kịch liệt
các cường quốc thực dân khác mà không đả
động ǵ tới nước Pháp, th́ khả năng
trước mắt của một chính phủ Cộng sản
Pháp cũng sẽ chỉ là giữ không lên tiếng
ủng hộ ông Hồ, huống chi là nói đến công
nhận và viện trợ.
Một người có đầu óc thực dụng như ông Hồ
thấy ngay được rằng Việt Nam chỉ đứng
hàng thứ hai trong chính sách đối ngoại
Mỹ và Việt Nam cũng không thể tranh thủ
được sự biệt đăi của mẫu quốc Nga khi
nước này c̣n đang phải đấu tranh giành
ưu thế khá rơ nét: “Chúng ta rơ rệt là
hoàn toàn đơn độc; chúng ta đấu tranh
quân sự ở Việt Nam tiếp tục và vị trí
của Pháp thường tỏ ra có vẻ mạnh, th́
vùng nông thôn rộng lớn vẫn không bị
chinh phục. Ưu thế của Pháp đă bị hạn
chế chặt chẽ chỉ có ở các thành phố và
đường giao thông”.
Sau năm 1947, t́nh h́nh chuyển biến ít
nhiều có lợi cho ông Hồ. Việc t́m kiếm
viện trợ Mỹ từ 1947 đến 1949 đă chẳng
mang lại được ǵ tốt đẹp và đến 1950 th́
hoàn toàn hết hy vọng. Nhưng ở Trung
Quốc, Mao Trạch Đông tiến những bước
nhảy vọt trong việc chống lại Tưởng Giới
Thạch và đến 1950, Mao đă ở trong thế có
thể giúp đỡ ông Hồ qua đường biên giới
phía Bắc Việt Nam. Ông Hồ không c̣n bị
cô lập như trước, ông đă có nhiều đồng
minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó
Liên Xô. Một cuộc đấu bóng mới đă bắt
đầu.
Chuyện ǵ đă xảy ra cho
Pháp ở Đông Dương từ khi cuộc ngừng bắn
đổ vỡ năm 1946? Vào năm 1947-1948, “bè
lũ Sài G̣n” bắt đầu thừa nhận khả năng
cho một số ít hạn chế người Việt Nam
tham gia Chính phủ Đông Dương nhưng
không phải là cho Việt Minh. D'Argenlieu
hống hách chủ trương không điều đ́nh với
ông Hồ và những người đi theo ông Hồ, và
đưa ra ư kiến chỉ có thể chấp nhận biện
pháp duy nhất là quay trở lại “chế độ
quân chủ cổ truyền”. Ông ta cho một phái
viên tới Hongkong để móc nối với cựu
hoàng Bảo Đại. Phản ứng đầu tiên của ông
này là ngờ vực và không muốn tiếp xúc
với D'Argenlieu, con người mà Việt Nam
kinh tởm. Nhưng Bảo Đại cũng chẳng muốn
bác bỏ Hồ Chí Minh, người mà ông ta ca
tụng là một nhà yêu nước chân chính, và
trên lư thuyết ông ta c̣n phục vụ với
danh nghĩa “cố vấn chính trị tối cao”.
Bảo Đại không phải hoàn toàn chỉ là một
“tay chơi đế vương”, một “Farouk Viễn
Đông”, hay là một “ông vua các hộp đêm”
như người Pháp thường thích gọi, mà ông
cũng c̣n là một nhà chính trị thận trọng
và có tính toán. Ông cũng không phải chỉ
là một tên bù nh́n sẵn sàng làm vừa ḷng
người Pháp chỉ v́ tiền tài và bổng lộc,
như người Pháp đă thấy v́ họ cũng phải
để mất hơn 2 năm mới thuyết phục được
Bảo Đại đồng ư làm theo mưu mô của Pháp.
Bây giờ mới rơ đó cũng là một cách để
Bảo Đại giũ sạch sự đô hộ của Pháp để
ông ta nổi lên, theo kiểu của ông, như
là một người dân tộc chủ nghĩa.
Vào đầu năm 1947, D'Argenlieu bị triệu
hồi về nước và nhiều sự kiện mới xảy ra
đă làm cho Bảo Đại phải xem xét lại t́nh
h́nh. D’Argenlieu bị gọi về chính là do
bị người Việt Nam ở Đông Dương và những
người Xă hội - Cộng sản Pháp căm ghét
sâu sắc. Trong năm 1947, Chính phủ
Ramadier giữ lập trường là Pháp có ư
định thương lượng một cuộc hoà giải với
“những đại diện chân chính ở Việt Nam”.
Điều đó có vẻ thành thật, nhưng thực ra
chỉ là một sự thoả hiệp không hay ho ǵ
giữa những người Cộng sản cùng với một
số ít người Xă hội đ̣i phải mở lại một
cuộc điều đ́nh với ông Hồ; và cánh tả
đảng Cộng hoà B́nh dân Pháp không muốn
có quan hệ với ông Hồ. Trong lúc đó th́
sự việc diễn ra một cách không thuận lợi
cho ông Hồ lắm v́ ông đă không tranh thủ
được một sự đảm bảo về chiến lược và
chính trị nào. Ông đă phải vào ẩn náu
trong vùng rừng núi, c̣n người Pháp kiểm
soát các đô thị và thành phố. Ngày 21-3,
ông đưa ra một bản thông báo, trong đó
ông “trịnh trọng tuyên bố” là nhân dân
Việt Nam chỉ mong muốn được thống nhất
và độc lập “trong Liên hiệp Pháp” và đảm
bảo “tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn
hoá của Pháp ở Việt Nam”. Chưa bao giờ
lại có điều kiện thuận lợi cho một cuộc
hoà giải hơn như trong mùa xuân 1947
này.
Nhưng vào lúc đó, lại nổi lên một sự
kiện mới, Việt Nam Quốc dân Đảng thân
Trung Quốc, Đại Việt và Đồng minh Hội,
được Quốc dân Đảng của Tưởng, bọn quân
phiệt Trung Quốc và cả Mỹ khuyến khích
đă đi đến thành lập một tập đoàn chính
trị mới gọi là Mặt trận Liên hiệp Quốc
gia. Tổ chức này được mô tả như là một
liên minh lỏng lẻo của những phần tử hợp
tác cũ đă mất uy tín, những tên mưu mô
đầy tham vọng, bọn bè phái bất lực và
một số lănh tụ thành thật nhưng nông cạn
và không có quần chúng. Trong số sau này
phải kể đến Ngô Đ́nh Diệm, lần đầu tiên
và cũng là lần độc nhất tham gia vào một
đảng phái không phải do ông tự lập ra.
Mặt trận Liên hiệp Quốc gia đă bắt liên
lạc với một số phần tử bảo thủ và, “ly
khai” ở Nam Kỳ như Cao Đài, Hoà Hảo và
đảng Xă hội Dân chủ Nam Kỳ. Họ hội họp ở
Quảng Châu và thống nhất ư kiến thôi
không ủng hộ Bảo Đại. Mặc dù các phần tử
này gần như hoàn toàn mất uy tín trong
nhân dân Việt Nam nhưng người Pháp lại
cho việc khuyến khích họ là điều thích
đáng đối với quyền lợi của nước Pháp.
Người thay D'Argenlieu là E. Bollaert,
một nghị sĩ thuộc đảng Xă hội cấp tiến
và đă đến Sài G̣n ngày 1-4 để phải đối
phó với hai phe đối địch nhau, Chính phủ
“hợp pháp” Việt Nam đang hoạt động từ
vùng rừng núi, và các nhóm khác nhau đă
họp thành Mặt trận Liên hiệp Quốc gia.
Bảo Đại lánh mặt ở hậu trường, Hoàng
Minh Giám, Bộ trưởng Ngoại giao của ông
Hồ gặp Bollaert ngày 19-4 và đă đưa ra
một đề nghị hoà giải chính thức; nhưng
một lần nữa thời cơ thuận lợi cho một
cuộc thương lượng hoà b́nh lại tan biến
v́ các điều khoản cua Pháp chẳng khác ǵ
một đ̣i hỏi Việt Minh phải đầu hàng.
Giữa lúc đó, Mặt trận Liên hiệp Quốc gia
mới được các người Công giáo Việt Nam
ủng hộ đề xuất ra “giải pháp Bảo Đại”.
Người Pháp lúc bấy giờ, tuy hoàn toàn
biết rơ về “tên tay chơi” này nhưng lại
nghĩ rằng họ có thể sai khiến được ông
ta, cũng giống như thời 1933, khi ông ta
c̣n là một thanh niên rất trẻ. Theo quan
điểm của Pháp lúc đó, một Việt Nam thống
nhất và có “bộ mặt độc lập” do Bảo Đại
đứng đầu, sẽ là một trong hai điều ít
hại nhất và cũng là một giải pháp duy
nhất thiết thực. Họ lập luận rằng những
người đi theo Bảo Đại bao gồm những
người bảo thủ và những người Quốc gia
cánh hữu, cũng như những người thuộc
giai cấp quan lại sẽ tăng cường cho chủ
nghĩa tư bản Pháp và nhà băng Đông
Dương. C̣n ở Mỹ, điều đó sẽ giúp xoa dịu
các phần tử chống Cộng và đồng thời nó
cũng có thể xoá nhoà các thành kiến
chống thực dân bằng những lời hứa hẹn
của Pháp cho Đông Dương tự trị dần từng
bước.
Nhưng có một điều thường đă không được
biết tới, ngay cả đối với người Mỹ năm
1965, là về mặt quân sự không thể “b́nh
định” được Việt Nam nếu không có sự tăng
cường quân đội Pháp ở Đông Dương bằng
hàng trăm ngàn người. Ở Pháp, đảng Cộng
hoà B́nh dân đă nhầm lẫn khi cho rằng
đưa được Bảo Đại lên ngôi vua th́ cuộc
kháng chiến của Việt Minh sẽ nhanh chóng
bị tàn lụi, trong khi nhưng người đảng
viên Xă hội lại hy vọng rằng Bảo Đại có
thể hoạt động gần giống như mọi người
trung gian và sẽ lôi cuốn được Việt Minh
đi theo Mặt trận Liên hiệp Quốc gia.
Để chấm dứt cuộc xung đột kéo dài, người
Pháp đă làm áp lực với Mặt trận Liên
hiệp Quốc gia, kêu gọi Bảo Đại thành lập
một chính phủ trung ương. Họ đă cử phái
đoàn đến gặp cựu hoàng ở Hongkong vào
tháng 5-1947, nhưng Bảo Đại vẫn c̣n
lưỡng lự. Nhà “ái quốc” Bảo Đại đă không
coi Mặt trận Liên hiệp Quốc gia là đại
diện cho nhân dân và ông ta cũng không
muốn tán thành một chính phủ do Pháp đỡ
đầu. Có thể ông ta cũng muốn có một sự
hoà giải nào đó với Việt Minh mà ông cho
là một lực lượng thiết yếu nhất ở Việt
Nam. Nhà “chính trị” Bảo Đại, lại nhận
thức được rằng Đảng Cộng hoà B́nh dân ở
Paris, trong mùa hè 1947 đă kêu gọi nổ
súng, sẽ không bao giờ bắt tay với ông
Hồ. V́ vậy, ông ta quyết định đóng một
vai tṛ tích cực và tuyên bố ông ta
chống lại Việt Minh. Lúc đó, đă có dư
luận cho rằng Bảo Đại đă nghĩ rằng qua
hành động trên, ông ta đă tranh thủ được
sự ủng hộ của Mỹ để chống lại người
Pháp, như là Mỹ đă dùng ảnh hưởng của
ḿnh ở Indonesia để chống lại người Hà
Lan.
Cuối cùng, Bảo Đại trong thâm tâm vẫn hy
vọng vào sự ủng hộ của Mỹ, đă gặp
Bollaert trên một tàu chiến Pháp tại
vịnh Hạ Long. Hai người đă kư tắt một
bản hiệp định sơ bộ, hứa hẹn độc lập
bằng những lời lẽ mơ hồ; nhưng sau đó
Bảo Đại đă được báo cho biết là bản tài
liệu nói trên chỉ đơn thuần là một bản
“ghi chép” các cuộc thương lượng và
không ràng buộc ông ta vào bất cứ vấn đề
ǵ(3). Bản tài liệu đă buộc Pháp phải
trao cho Việt Nam quyền tự trị tối thiểu
ở mức mà Diệm cũng như phần lớn số cơ
hội chủ nghĩa trong Mặt trận Liên hiệp
Quốc gia đă phản đối ngay tức khắc.
Việc Bảo Đại cảm thấy Mỹ có thể nh́n ông
bằng một con mắt thiện cảm không phải là
không có căn cứ. Ba tuần lễ sau khi ông
ta kư bản hiệp định sơ bộ, tuần báo Life
của Mỹ đă đăng một bài của W.C. Bullit,
cựu đại sứ chúng ta ở Pháp, trong đó
Bullit bênh vực một chính sách nhằm kết
thúc cuộc “chiến tranh buồn thảm nhất”
bằng cách giành lại đa số những người
quốc gia Việt Nam từ phía Hồ Chí Minh để
chuyển sang một phong trào được xây dựng
chung quanh Bảo Đại. Ở Pháp, quan điểm
của Bullit được dư luận rộng răi coi như
một lời công bố chính sách Mỹ và cũng là
một sự tán thành và hứa hẹn trực tiếp Mỹ
viện trợ cho Bảo Đại.
Mặc dù h́nh như đă có được một sự đồng ư
của Mỹ, Bảo Đại cũng vẫn lo ngại v́ Mặt
trận Liên hiệp Quốc gia lên án hiệp định
ông đă kư là không có giá trị. Ông liền
tự tách ḿnh khỏi những mưu toan đang
h́nh thành và bay sang châu Âu ngao du
trong 4 tháng. Ở đây, dù cho ông ta có
ăn phải cái bả mà Bullit đă đưa ra hay
không, h́nh như Bảo Đại cũng cảm thấy Mỹ
trước sau cũng sẽ không tránh khỏi bị
lôi cuốn vào Đông Nam Á, và ông ta hy
vọng một cách mạnh mẽ rằng việc Mỹ can
thiệp sẽ dẫn theo việc Mỹ sẽ dựa vào
phong trào quốc gia chủ nghĩa Việt Nam
để làm áp lực với Pháp.
Người Pháp, mặc dù đối tượng vẫn lẩn
tránh, đă phái các nhà ngoại giao đuổi
theo “ông vua” đang du hành và công bố
quyết định chung của họ “cho xúc tiến,
ngoài Chính phủ Hồ Chí Minh, mọi hoạt
động và điều đ́nh cần thiết để khôi phục
lại hoà b́nh và tự do trên đất nước Việt
Nam”, có nghĩa là dĩ nhiên họ đă tự ràng
buộc ḿnh với một chiến thắng quân sự và
Bảo Đại.
Bollaert đă t́m gặp được Bảo Đại ở
Genève (tháng 1-1948) và hai bên đă hội
họp với nhau nhiều lần, qua đó Bảo Đại
phát biểu là nếu như Hiệp định Hạ Long
không được bổ sung thêm th́ ông ta sẽ
không trở về Việt Nam. Sau đó, ông ta đă
đi Cannes rồi về Paris để xem xét t́nh
h́nh. Ở Paris, ông ta thấy được Đông
Dương đă trở thành một vấn đề tranh căi
quan trọng giữa các Bộ khác nhau, các
đảng phái đối lập, các nhóm tài phiệt và
các nhà chính trị. Những người cực hữu
theo De Gaulle phản đối kịch liệt nhất
cho rằng bản hiệp định sơ bộ đă đi quá
xa. Bảo Đại bèn trở lại Hongkong vào
tháng 3, không để cho ḿnh bị ràng buộc
một lần nữa.
Trong khi đó, Pháp vẫn nài ép và Mặt
trận Liên hiệp Quốc gia làm áp lực bắt
Bảo Đại phải tiếp tục điều đ́nh với
Bollaert nên họ lại gặp nhau tại vịnh Hạ
Long ngày 5-6-1948. Lần này, bản hiệp
đ́nh đă được “bổ sung” và nước Pháp
“trịnh trọng công nhận nền độc lập của
Việt Nam”, nhưng đặc biệt họ chỉ giữ lại
quyền kiểm soát công tác đối ngoại và
quân đội, c̣n việc chuyển giao các chức
năng khác của chính phủ th́ sẽ được giải
quyết ở các cuộc thương lượng sau. Thực
tế người Việt Nam chẳng được trao cho
quyền hành ǵ.
Ở Đông Dương, phản ứng nổ ra dữ dội.
Việt Minh la lối cho là xấu xa tội lỗi
v́ Bảo Đại đă nài xin được người Pháp
chữ “độc lập” thần kỳ mà Hồ Chí Minh đă
cố gắng giành giật ở Fontainebleu không
được và bây giờ th́ điều đó có thể đào
phá sự ủng hộ của quần chúng đối với
Việt Minh. Đối với “bè lũ Sài G̣n” và
đám thực dân, họ cũng cho là đă chẳng
mang lại điều ǵ có ư nghĩa cho những
người “A nam mít”,nhưng báo chí của họ
vẫn lớn tiếng chống lại việc “đầu hàng”
của Bollaert, yêu cầu cắt Nam Kỳ ra khỏi
miền Bắc và cho trở lại chế độ của một
xứ bảo hộ. Các chính trị gia ở Paris ra
sức trấn an đám thực dân và đảm bảo với
họ rằng sẽ không có ǵ thay đổi - cuộc
chiến tranh cũng không chấm dứt. Các
lănh tụ Cộng hoà B́nh dân và nhiều người
thân cận với Cộng hoà B́nh dân lại cho
rằng kéo dài chiến tranh sẽ hết sức có
lợi và đă đi đến quyết định không để cho
cuộc chiến tranh kết thúc sớm.
Bảo Đại một lần nữa lại rút lui khỏi sân
khấu và sang châu Âu, trong khi ở Hà
Nội, Pháp chuẩn bị để đưa ra một chính
phủ người bản xứ thể hiện rơ ràng là bất
lực. Từ Saint Germain, ngày 25-8, Bảo
Đại báo cho Bollaret biết ông ta sẽ
không trở về Việt Nam nếu như chế độ
thuộc địa ở Nam Kỳ không bị huỷ bỏ, và
ông ta không nhận được sự đảm bảo cho
Việt Nam độc lập. Ngày hôm sau đă thấy
các Bộ trưởng ở Paris phát biểu “thực sự
hắn đă bắt đầu bất chấp cả chúng ta”
(tiếng Pháp). Ở đây đă có khá nhiều điều
cho thấy Bảo Đại không phải chỉ là một
tên bù nh́n và “vua hộp đêm” như mọi
người vẫn tưởng.
Nhưng cuối cùng (ngày 8-3-1949), Bảo Đại
đă nhân nhượng và kư bản Hiệp định
Auriol - Bảo Đại, rất-được-hoan-nghênh,
hiệp định mà người ta c̣n gọi là Thoả
hiệp Élysée, trong đó các bộ phận chủ
chốt trong chính phủ vẫn do Pháp nắm giữ
và cơ cấu thuộc địa cũ vẫn c̣n nguyên
vẹn. Tại sao Bảo Đại phải nhượng bộ cho
người Pháp? H́nh như là nếu ông ta kéo
dài thêm sự chống đối th́ Pháp sẽ t́m
một biện pháp thay thế khác, và Đông
Dương sẽ măi măi vẫn c̣n là một thuộc
địa của Pháp. Ảnh hưởng của Việt Minh sẽ
không suy giảm và cơ hội cuối cùng để đi
đến một hoà b́nh không có Cộng sản đă
sớm tiêu tan. Cuộc viếng thăm Paris của
Bảo Đại năm trước đă cho ông ta thấy rơ
đường lối cứng rắn của cánh hữu Pháp
quyết tâm theo đuổi cuộc chiến tranh lâu
dài khi nào mà điều đó vẫn có lợi. Để
tránh được điều đó, Bảo Đại đă liều kư
thoả hiệp Élysée để nhằm một khi nắm
được chính quyền, ông ta có thể sẽ chơi
một ván bài quốc tế theo kiểu cách của
chính ông. Ông ta đă kư gửi rất nhiều
ḷng tin vào sự ủng hộ của Mỹ mà ông hy
vọng sẽ ḱm giữ được Pháp và cung cấp
cho Việt Nam một sự viện trợ tối cần
thiết về kinh tế.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy Bảo Đại
vừa là một nhà chính trị, vừa là một
người dân tộc chủ nghĩa. Sau khi đă kư
thoả hiệp Élysée, Bảo Đại cố gắng t́m
cách thanh toán với ông Hồ. Vào tháng 5,
có tin tung ra nói ông Hồ có thể cũng
không bị mất quyền ưu tiên trong một
chính phủ mới của Bảo Đại. Trong điệu
nhảy rất chi là tưởng tượng vừa với
người Pháp vừa với người Mỹ của ḿnh,
Bảo Đại vẫn nghĩ rằng sẽ không thể có
một chính phủ thực sự đại diện nếu như
không có được sự tham gia, hay ít ra
cũng phải là một sự tán thành ngầm của
Việt Minh mà dù sao đi nữa th́ ông ta
cũng vẫn c̣n ngưỡng mộ. V́ vậy, một khi
trở về Việt Nam, ông ta đă từ chối không
tuyên bố ḿnh chống đối lại với cái gọi
là “kháng chiến”.
Công việc đầu tiên đặt ra trước mắt cựu
hoàng (ông tự phong cho ḿnh nhiệm vụ
phải giành được địa vị quốc tế) là thành
lập một chính phủ, một việc đầy những
khó khăn: sự ngoan cố của Pháp, sự thờ ơ
của quần chúng và sự chống đối về chính
trị. Nhưng người Pháp đă tính toán và
cho hoăn việc thi hành thoả hiệp Élysée.
Quân đội của họ đóng lại, nhân viên hành
chính tiếp tục làm việc ở các cấp chính
quyền; người Việt Nam chẳng được trao
cho một chút quyền hành thực sự nào, như
bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam
chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị
của Pháp.
Khi Bảo Đại cố nài Pháp
phải có một hành động tích cực th́ Léon
Pignon, Cao uỷ mới và là người của
D'Argenlieu đă cho biết Pháp chỉ trao
trả chủ quyền cho “một chính phủ được
Pháp tin cậy nhất”. Mùa hè 1949, Bảo Đại
đă thất bại trong việc thành lập một
chính phủ đáng tin cậy chỉ v́ thiếu sự
tín nhiệm của những người trung thực và
v́ các tham vọng cá nhân. Những người
Quốc gia ngay thẳng đă không tham gia v́
họ thấy nguyện vọng độc lập dân tộc
không được đáp ứng. Khi Ngô Đ́nh Diệm
không được chấp nhận làm Thủ tướng; ông
này đă phê phán những người không liêm
chính ra nhận việc lúc đó như sau:
“Nguyện vọng dân tộc của nhân dân Việt
Nam sẽ chỉ được thoả măn khi ngày mà đất
nước chúng ta đạt được một chế độ chính
trị giống như Ấn Độ và Pakistan đă được
hưởng… Tôi cho rằng chỉ có một cách duy
nhất đúng là phải dành những chức vụ tốt
nhất trong nước Việt Nam mới cho những
người xứng đáng nhất của đất nước. Tôi
muốn nói đó là “những người kháng
chiến”.
Thay v́ cho “những phần tử kháng chiến”,
Bảo Đại đă chọn thủ lĩnh các cấp của ông
ta trong những người đồng hoá sâu sắc
với Pháp, những người giàu lớn đáng ngờ
hoặc có dính líu chặt chẽ với giới mại
bản xấu xa của Việt Nam và không một ai
được quần chúng ủng hộ.
Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu
trưởng quân đội Pháp, được phái sang
Việt Nam để nghiên cứu t́nh h́nh (tháng
5, 6 năm 1949) và sau đó đă viết:
“Hồ Chí Minh đă có khả năng chống cự lại
với sự can thiệp của Pháp lâu đến như
thế, chính là v́ nhà lănh đạo Việt Minh
đă biết tập hợp chung quanh ḿnh một
nhóm những người thực sự có năng lực…
Ngược lại, Bảo Đại đă có một chính phủ
gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng
phái ma, trong số đó đảng mạnh nhất cũng
khó mà đếm một được 25 đảng viên”.
Nhưng lúc đó ở Pháp, chính phủ Henri
Queille đă cho ra một bản tuyên bố công
khai (8-9-1949) tán dương việc “đă giải
quyết xong vấn đề Đông Dương bằng cách
thiết lập được chế độ Bảo Đại. Thực chỉ
là câu chuyện phiếm. “Giải pháp Bảo Đại”
đă chẳng đạt được một cái ǵ lâu dài, và
cuộc chiến tranh Đông Dương vẫn cứ tiếp
tục, càng ngày càng đào xới sâu thêm vào
nền kinh tế Pháp và có nguy cơ phát
triển từ một cuộc chiến tranh xâm chiếm
thuộc địa thành một cuộc chiến tranh có
tầm cỡ thế giới.
Bản thân Bảo Đại gần như không làm ǵ để
cho chính phủ của ông ta thành đại diện
và có hiệu lực hơn. Ông ta tiêu phí thời
gian trong các cuộc vui chơi ở các thành
phố nghỉ mát Đà Lạt, Nha Trang và Ban Mê
Thuột; sống ngoài lề các hoạt động của
chính phủ. Có lẽ để bào chữa cho hành
động và thái độ của ḿnh, ông ta đă có ư
kiến về t́nh h́nh năm 1950 như sau: “Cái
mà người ta gọi là một giải pháp Bảo
Đại, nay đă không c̣n thực sự là một
giải pháp của Pháp nữa… T́nh h́nh Đông
Dương mỗi ngày một trở nên tồi tệ”.
Nhưng vào đầu năm 1950, chính phủ Bảo
Đại lại biểu thị hoan nghênh Hồ Chí Minh
v́ việc Trung Cộng và Liên Xô công nhận
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đă mang lại
cho Pháp và cho chế độ của ông ta viện
trợ Mỹ và đă quốc tế hoá cuộc chiến
tranh ở Đông Dương.
Trong t́nh huống đó, Pháp đă bị đặt vào
trong một địa vị khó xử đối với Mỹ. Nếu
phải chứng minh mục đích của Pháp là đấu
tranh nhằm bảo vệ chính phủ Bảo Đại
chống lại những người Cộng sản, th́
không có ǵ khác hơn là Pháp phải thông
qua thoả hiệp Élysée, nhờ đó mà chính
phủ Bảo Đại mới tồn tại. Chỉ lúc đó Pháp
mới có thể đ̣i hỏi chúng ta viện trợ
trực tiếp về quân sự cho chiến tranh
Đông Dương. Như vậy là sau khi đă kéo
dài gần một năm, cuối cùng Pháp mới chịu
thông qua Thoả hiệp vào ngày 16-2-1950.
***
Trong khi nước Mỹ có thể sử dựng một ảnh
hưởng quyết định để thúc đẩy một cuộc
thanh toán những nỗi cơ cực của người
Việt Nam vào năm 1945-1946, và khi người
Pháp có thể điều đ́nh một cách khá thuận
lợi với người Việt Nam trong mùa xuân
1947, cuối năm 1949 và suốt trong năm
1950, th́ đă có một số trường hợp dần
dần phát triển ra và có tác dụng ḱm hăm
sự tiến triển của t́nh h́nh qua một phức
hợp các vấn đề quốc tế nan giải.
Trong thời kỳ này, nền kinh tế Mỹ đang
mục kích một sự biến đổi hoàn toàn từ
sản xuất chiến tranh sang cung ứng cho
các yêu cầu thời b́nh. Hạ tầng cơ sở
công nghiệp cũng đă thay đổi. Khối dự
trữ lao động đă bị quân đội hút đi mất
khá nhiều nhân lực từ 1941 đến 1945,
phải bổ sung bằng lực lượng phụ nữ,
trước đây vẫn tách rời với công việc
ngoài xă hội. Sau chiến tranh, sức sản
xuất được mở rộng hết sức của chúng ta
đă được dùng để thoả măn các nhu cầu đă
bị gạt đi trong thời chiến và đưa đến
một mức sống cao hơn cho cả đất nước.
Trong đại bộ phận các ngành công nghiệp,
mức sản xuất phục vụ cho tiêu dùng trong
nước và viện trợ kinh tế cho nước ngoài,
đă đạt tới những đỉnh cao chưa từng có
như trong năm 1947-1948. Nhưng bắt đầu
từ cuối 1948 và sang 1949, đă cần phải
có một sự điều chỉnh để giảm bớt số các
nhà máy thu nhập kém không đảm bảo định
mức. Mặt thay đổi khác của nền kinh tế
sau chiến tranh của chúng ta là hiện
trạng kinh tế xă hội thu nhập bằng tiền
lương kép trong xă hội Mỹ. Cả chồng lẫn
vợ đều làm việc nên sức mua của họ tăng
nhanh một cách rất không cân đối với thu
cầu b́nh thường của họ, dẫn đến lạm phát
gay gắt và làm giảm sức mua của đồng
dollar. Các diều kiện này đă gợi ra
trong tiềm thức người ta ư muốn quay trở
lại với một nền kinh tế chiến tranh “hạn
chế”. Đó chính là t́nh trạng kinh tế
nước Mỹ trước khi nổ ra cuộc chiến tranh
Triều Tiên.
Có thể như Mỹ đă tính toán trong việc
cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho
Đông Dương vào đầu 1950, các quốc gia
liên hiệp và Pháp đă mở cuộc điều đ́nh ở
Pau (Pháp) để ấn định thời gian và mức
độ trao quyền tự trị cho chế độ Bảo Đại.
Cuộc thương lượng lúc đầu dự tính vào
tháng 1-1950, nhưng măi đến 29-6 mói
tiến hành được và kéo dài cho đến khi
kết thúc vào tháng 11. Bảo Đại đến Pháp
để chờ Hiệp định Élysée được thông qua,
chỉ đóng vai một “quan sát viên” suốt
trong thời gian hội nghị, trước sự phiền
ḷng của Pháp v́ họ chỉ muốn ông ta ở
lại Việt Nam có lợi hơn và đừng can
thiệp vào công việc ở Pau.
Tuy các hiệp định Élysée và Pau đă đưa
lại dược ít nhiều kết quả cụ thể cho
chính phủ tự trị, nhưng người Pháp vẫn
giữ quyền kiểm soát về quân sự, ngoại
giao và thương mại, hệ thống tài chính
và toà án. Và dù cho nhượng bộ ít ỏi,
nhưng nhiều người Pháp lại cho Hội nghị
Pau là một sự từ bỏ quyền hành tai hại
cho Pháp và cũng có nghĩa như là một sự
cáo chung của Pháp ở Đông Nam Á. Phái
đoàn quốc gia Việt Nam lúc đó lại quan
niệm các kết quả đạt được cũng là một
bước tiến bộ. Họ cảm thấy muốn giành
được cái ǵ từ người Pháp th́ cũng phải
“rỉa mồi” dần, do đó cần phải có thời
gian và kiên nhẫn. Tất nhiên họ đă lầm,
không bao giờ Pháp cho Việt Nam độc lập
để mất Đông Dương. Bảo Đại trở về Việt
Nam và cho rằng ông ta đă làm hết sức
ḿnh để người Pháp phải giữ lời cam kết.
Ông sẽ chờ và xem. Có thể người Mỹ sẽ
khích lệ giúp đỡ. Nhưng sau một ngày ở
Sài G̣n, thấy Pháp từ chối không cho ông
sử dụng dinh Norodom, trụ sở chính quyền
thuộc địa Pháp, Bảo Đại liền rút lui về
nhà ở Đà Lạt. Sự việc này cho thấy rơ
t́nh h́nh chẳng có ǵ thay đổi cả.
Giá như cuộc thương lượng đă mang lại
một nền độc lập thực sự cho chế độ Bảo
Đại, th́ mối quan hệ tiếp theo sau giữa
Mỹ và Pháp cũng có thể ít phức tạp hơn
và cũng ít cay đắng một cách có ư nghĩa
hơn. Không những thế, việc Pháp miễn
cưỡng nhận phải trao trả quyền hành về
chính trị và kinh tế cho Bảo Đại c̣n
được các viên tư lệnh ngoan cố có khuynh
hướng hiếu chiến khuyến khích thêm; họ
nghi ngờ người Mỹ, quyết tâm giành chiến
thắng quân sự, và khinh thường “giải
pháp Bảo Đại”. Khi Pháp xin viện trợ,
tướng Marcel Carpentier, Tổng tư lệnh
quân Pháp, đă trả lời báo New York Times
(9-3-1950) như sau: “Tôi sẽ không khi
nào đồng ư cấp trang bị trực tiếp cho
người Việt Nam. Nếu việc đó cứ được làm,
tôi sẽ từ chức trong ṿng 2 tiếng đồng
hồ. Người Việt không có tướng, không có
tá, không có tổ chức quân sự để có thể
sử dụng một cách có hiệu quả các trang
thiết bị được giao. Đó sẽ là một sự lăng
phí, mà Mỹ ở Trung Quốc đă phải gánh
chịu khá nhiều”.
Cuối cùng chính phủ Pléven đă phải thay
Pignon (tháng 12-1950) và cử tướng Jean
De Lattre De Tassigny làm Cao uỷ và Tổng
tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông
Dương, người đầu tiên và duy nhất được
trao cả hai nhiệm vụ trong tay. De
Lattre đă kích động được quân Pháp đang
mất tinh thần và tập hợp họ lại thành
lực lượng chiến đấu. Ông tự xưng là
người lănh đạo một đội thập tự quân
chống Cộng và sẽ giành thắng lợi quyết
định ở Việt Nam trong ṿng 15 tháng,
“cứu Việt Nam ra khỏi tay Bắc Kinh và
Mátxcơva”. Ông không thừa nhận ư kiến
cho rằng Pháp vẫn c̣n hành động theo chủ
nghĩa thực dân và đă từng nói với một kư
giả Mỹ: Chúng tôi không c̣n có nhiều
quyền lợi ở đó. Chúng tôi đă từ bỏ hoàn
toàn tất cả các đất đai thuộc địa của
chúng tôi. Ở đó, chúng tôi chỉ được một
ít cao su, than và gạo… Có ǵ có thể so
sánh được với máu của con em chúng tôi
đă phải đổ ra, và với số tiền 350 triệu
quan chúng tôi tiêu mỗi ngày ở Đông
Dương?
Việc mà chúng tôi làm là chỉ nhằm để cứu
vớt dân chúng Việt Nam. V́ vậy chiến
dịch tuyên truyền của Mỹ nói rằng chúng
tôi vẫn là thực dân chỉ gây ra những tai
hại ghê gớm cho chúng tôi, cho tất cả
chúng ta: người Việt Nam, bản thân các
ông và chúng tôi”.
Hơn thế nữa, De Lattre, c̣n tin tưởng
rằng người Việt phải được đưa vào tham
gia chiến đấu. Qua lời phát biểu trong
“Lời kêu gọi các thanh niên Việt Nam”,
ông tuyên bố:
“Cuộc chiến tranh này, dù các anh muốn
hay không th́ cũng vẫn là một cuộc chiến
tranh của Việt Nam, cho Việt Nam. Và
nước Pháp sẽ chỉ theo đuổi nó v́ các anh
và nếu như các anh cũng theo đuổi cuộc
chiến đó cùng với nước Pháp… Thanh niên
Việt Nam mà tôi thân thương như đối với
thanh niên ở chính nước tôi, đă đến lúc
các anh phải tự bảo vệ lấy đất nước
ḿnh”.
Nhưng tướng De Lattre có nhiều điều nghi
ngại về chính sách Mỹ đối với Bảo Đại.
Ông ta cho rằng người Mỹ đau khổ v́
“nhiệt tâm cứu thế” của ḿnh, đă “làm
bùng lên ngọn lửa của chủ nghĩa dân tộc
cục đoan. Ở đây, truyền thống của Pháp
phải là chủ yếu. Không được và không thể
thủ tiêu nó. Không ai chỉ có thể đơn
giản qua một đêm mà xây dựng ngay được
một nước mới bằng cách duy nhất cung cấp
các viện trợ kinh tế và vũ khí!”. Cũng
như Carpentier, De Lattre kiên quyết
chống lại viện trợ trực tiếp của Mỹ cho
quân đội Việt Nam và trao cho giới quân
sự Việt Nam một chút ít quyền hành.
Edmund A. Gullion, Bí thư Cố vấn của
chúng ta ở Sài G̣n (từ 1950) đă nhầm lẫn
khi cho De Lattre không có khả năng động
viên một sự năng động mănh liệt trong
quân đội Quốc gia Việt Nam như ông ta đă
từng làm được với số c̣n lại của quân
viễn chinh Pháp:
“Thật khó mà truyền được một tinh thần
dân tộc hăng say vào một đội quân người
bản xứ mà trước đây sĩ quan và hạ sĩ
quan của họ đều là người Pháp da trắng…
Các đơn vị Việt Nam đi hoạt động rất ít
khi được người Pháp hỗ trợ… Có lẽ dấu
hiệu có ư nghĩa nhất và cũng là đáng
buồn nhất trong việc Pháp thiếu sót
không tổ chức được quân đội Việt Nam
thực sự độc lập và có thế chiến đấu theo
cách của De Lattre hiểu, là ở Điện Biên
Phủ đă vắng bóng mọi đơn vị chiến đấu
Việt Nam. Đó là một cuộc tŕnh diễn của
Pháp”.
Gullion đă ít nhiều sai lầm chung quanh
vấn đề Điện Biên Phủ; tỷ lệ thành phần
dân tộc trong số quân pḥng thủ cứ điểm
ngày 6-5-1954 cho thấy người Việt Nam
chiếm gần 3% số sĩ quan, 16,2% số hạ sĩ
quan, 39,2% số lính. Nhưng cơ bản
Gullion đă nói đúng. Quân đội Việt Nam
đă không hoặc có rất ít tiếng nói trong
việc quyết định về các vấn đề chiến lược
và chiến thuật và cũng có rất ít lư do
để chiến đấu một cách mănh liệt trong
một cuộc chiến tranh của người Pháp.
***
Ở Washinton đă h́nh thành nhiều nhận
định quan trọng làm cơ sở cho việc quyết
định các chính sách của chúng ta từ 1950
đến 1954; sự quan trọng ngày càng lớn
của châu Á trên chính trường thế giới,
khuynh hướng của ta nh́n nhận “mối đe
doạ Cộng sản” toàn cầu theo kiểu của một
khối thống nhất, và mưu đồ của chế độ
Việt Minh quyết tâm loại trừ người Pháp
ra khỏi Đông Dương. Vấn đề chót này đă
được giải quyết như là biểu hiện của một
bộ phận trong âm mưu thôn tính toàn cầu
ở Đông Nam Á của Cộng sản và nó cũng
biện minh cho một định kiến được chấp
nhận rộng răi trong giới quan chức
Washington cho rằng nếu Đông Dương “bị
mất” th́ toàn bộ c̣n lại của Đông Nam Á
sẽ không tránh khỏi bị rơi vào xâm nhập
của Cộng sản và sẽ bị chiếm qua một phản
ứng dây chuyền. Khái niệm chiến lược này
đă có trước khi nổ ra cuộc chiến Triều
Tiên tháng 6-1950. Chắc rằng nó đă trải
qua thời kỳ thai nghén trong khi Quốc
dân Đảng rút khỏi lục địa Trung Quốc
(12-1949). Sau khi Bộ trưởng Quốc pḥng
Louis Johnson bày tỏ lo ngại đối với sự
tiến triển t́nh h́nh tại Đông Nam Á và
đề cập tới việc mở rộng các chủ trương
trước đây đối với từng nước một sang một
kế hoạch cho từng khu vực.
Vào năm 1949 th́ Nga, chứ
không phải Trung Quốc, được coi như là
nguồn gốc chính của mối đe doạ Cộng sản
ở châu Á, mặc dù mọi người cũng nhận
thức rằng Trung Quốc, Nhật và cả Ấn Độ
cũng có thể mưu đồ thống trị châu Á
trong quá tŕnh thời gian. Nhưng trong
năm 1949, Hội đồng An ninh Quốc gia của
chúng ta đă giữ lập trường cho Mỹ là một
nước lớn phương Tây, nên sẽ phải ḱm chế
không để cho bị lôi kéo vào Đông Nam Á;
thay v́ điều đó sẽ khuyến khích các dân
tộc Ấn Độ, Pakistan, Philippin và các
nước châu Á khác tích cực chủ động việc
ngăn chặn sự bành trướng của Cộng sản.
Hội đồng đă đặc biệt nêu ra Đông Dương,
nhấn mạnh ở đó “phải có hành động làm
cho người Pháp thấy rơ được sự cấp bách
phải gạt bỏ các chướng ngại đă ngăn trở
không cho Bảo Đại giành được sự ủng hộ
của phần lớn những người Việt Nam”. Đông
Dương có một tầm quan trọng đặc biệt v́
đó là vùng độc nhất tiếp giáp với Trung
Quốc và ở đó đang có một đội quân người
Âu to lớn chiến đấu chống lại các lực
lượng “Cộng sản”. Các nguồn tin chính
thức Pháp vẫn tiếp tục báo cáo với các
nhà ngoại giáo của ta ở Paris, Sài G̣n,
Hà Nội và Washington là “có một số đội
quân Trung Quốc ở Bắc Kỳ, và một số lớn
khác đang chuẩn bị hoạt động” chống lại
người Pháp trên biên giới phía Trung
Quốc. Cả hai Bộ Ngoại giao và Quốc
pḥng, với những báo cáo (không đầy đủ)
này lại có đầy đủ lư do để yêu cầu Hội
đồng An ninh Quốc gia xem xét t́nh h́nh
và nghiên cứu các biện pháp để bảo vệ
các quyền lợi Mỹ ở Đông Dương.
Căn cứ vào t́nh h́nh đó, Bộ Ngoại giao
đă đưa ra một văn bản với đầu đề “lập
trường của Mỹ đối với Đông Dương”. Vấn
đề được nêu ra là “để quyết định biện
pháp thực tế của Mỹ nhằm bảo đảm an ninh
của Mỹ ở Đông Dương và ngăn chặn không
cho sự xâm lược của Cộng sản bành trướng
trong vùng này”. Sau khi đă phân tích
vấn đề một cách rộng răi dựa trên các
nhận định như “mối đe doạ của Cộng sản
xâm lược Đông Dương chỉ là một bước
trong kế hoạch đă có sẵn của Cộng sản để
chiếm lấy tất cả vùng Đông Nam Á” và
việc Trung Quốc và Nga công nhận Chính
phủ Hồ Chí Minh mới đây đă đe doạ nghiêm
trọng chế độ Bảo Đại do Pháp đỡ đầu, các
tác giả văn kiện nói trên đă kết luận
“điều quan trọng đối với quyền lợi an
ninh Mỹ là phải cho thi hành mọi biện
pháp thiết thực để ngăn chặn sự bành
trướng sau này của Cộng sản ở Đông Nam
Á”. Văn kiện đă được đệ tŕnh Hội đồng
An ninh Quốc gia ngày 27-2-1950 để được
“xem xét một cách khẩn cấp”.
Hội đồng An ninh Quốc gia khôn ngoan đă
đồng ư với các kết luận của tác giả văn
kiện, đặc biệt đối với khái niệm cho
rằng cần phải thấy Thái Lan và Miến Điện
sẽ có thể bị rơi vào ṿng thống trị Cộng
sản nếu như Đông Dương bị kiểm soát bởi
một Chính phủ do Cộng sản “cầm đầu” và
“lúc đó th́ cán cân lực lượng ở Đông Nam
Á sẽ bấp bênh nghiêm trọng”. Văn kiện đă
được ghi dưới kư hiệu NSC- và được tŕnh
cho Tổng thống kèm theo lời đề nghị của
Hội đồng “yêu cầu Tổng thống chấp nhận
các kết luận và ra lệnh cho các Bộ và
các Tổng cục có liên quan trong Chính
phủ Mỹ thi hành dưới sự hiệp đồng của Bộ
Ngoại giao”. Tài liệu đă được Tổng thống
thông qua ngày 27-3-1950 và được chấp
nhận là chính sách của Mỹ.
Cũng cần phải thấy rằng bản tài liệu
NSC-64 đă được chuẩn bị và được chính
quyền Truman thông qua trước khi nổ ra
cuộc chiến tranh Triều Tiên. Lời tuyên
bố kết luận của nó mà người ta thường
gọi là “thuyết domino” được coi là có
liên quan nhiều đến Triều Tiên, nhưng
thực ra nó bắt nguồn từ cuộc đấu tranh
Đông Dương. Cuộc chiến Triều Tiên bùng
nổ vào tháng 6 chỉ củng cố thêm quan
điểm của chính quyền về “thuyết domino”,
và làm các học thuyết Truman về vành đai
ngăn chặn trở thành mục tiêu của quốc
gia.
Cả các nhà chiến lược và các nhà làm
chính sách đều thống nhất một ư nghĩ -
giữ vững được tuyến Đông Nam Á là điều
cần thiết cho quyền lợi an ninh nước Mỹ.
Cuộc đấu tranh của Pháp ở Đông Dương,
hơn bao giờ hết, được coi như là một bộ
phận cấu thành của chiến lược ngăn chặn
Cộng sản trong vùng này của thế giới, và
chúng ta đă tăng cường và mở rộng các
chương tŕnh viện trợ của chúng ta cho
Đông Dương. Việc chuyên chở viện trợ
quân sự cho Pháp để tiến hành chiến
tranh Đông Dương đă đạt mức ưu tiên thứ
hai trong năm 1951, ngay sau Chương
tŕnh viện trợ chiến tranh Triều Tiên.
Ở Paris, người ta tiếp nhận tin tức về
việc bùng nổ cuộc chiến tranh Triều Tiên
với nhiều nỗi lo lắng và ác cảm lớn.
Phản ứng đầu tiên cho đó chỉ là một sự
kiện địa phương, một cuộc chiến không
liên quan ǵ tới Pháp và không trở thành
một vấn đề quốc tế quan trọng. Nhiều
người lại sợ rằng việc tham gia vào đó
sẽ làm Mỹ xao lăng vấn đề kinh tế châu
Âu và các chương tŕnh pḥng thủ chung.
Người khác lại nghi ngờ Mỹ có những động
cơ ích kỷ và vụ lợi, chỉ nhằm mở rộng
tuyến ngăn chặn của Mỹ sang phía tây của
một nước Triều Tiên “thống nhất”, bảo vệ
những quyền lợi của Mỹ ở Nhật và Đài
Loan chống lại “mối đe doạ đỏ”, một hành
động có thể dễ dàng đưa Mỹ và Liên Xô
vào một cuộc đối đầu công khai và Thế
chiến thứ ba.
Có thể thấy một thí dụ về quan điểm của
Pháp trong bài của báo Le Monde ngày
27-6, nói rằng nếu Triều Tiên bị mất th́
ít ra cũng có lợi là dạy cho Mỹ một bài
học. Điều đó sẽ bắt buộc chúng ta phải
điều chỉnh lại chính sách đối với chân Á
và phải xét xem một t́nh huống giống như
thế có thể xảy đến cho Đông Nam Á không.
Bài báo đ̣i hỏi chúng ta phải chấm dứt
các thất bại ở Triều Tiên và Đài Loan
bằng mọi cách giúp đỡ cho Pháp chống đỡ
được ở Đông Dương.
Nó cũng cho biết quan điểm của Pháp là
Đông Dương cũng đă khá loạn rồi, tại sao
làm rối thêm bằng cách để cho bị lôi
cuốn vào Triều Tiên nữa?
Thực ra, cuộc chiến Đông Dương đă trở
thành một gánh nặng về tâm lư và kinh tế
cho người Pháp. Nó đă trở thành “La sale
guerre”(4) và có vẻ cứ tiếp tục không
bao giờ dứt. Vào năm 1949-1950, chỉ có
một vài nhà chính trị và kinh doanh lớn
có nói đến “cuộc thập tự chinh chống
Cộng sản” và việc bảo vệ “danh dự Pháp”
ở Viễn Đông. Tinh thần chống chiến tranh
ở Pháp, Trung Cộng thắng lợi ở phía Bắc,
có khả năng có thể xảy ra một cuộc thất
bại quân sự của Pháp, tất cả đă tạo ra
một cảnh tượng u buồn.
Nỗi lo ngại chung sợ rằng cuộc chiến mới
ở Triều Tiên có thể không có ǵ ḱm hăm
được nữa và đ̣i hỏi Pháp phải đóng góp
nhiều hơn để phục vụ quyền lợi Mỹ ở Viễn
Đông, đă tiêu tan trước lời tuyên bố
ngày 27-6 của Tổng thống Truman, nói
rằng ông đă chỉ thị “gia tăng việc cung
cấp viện trợ quân sự cho quân đội Pháp
và các quốc gia liên hiệp ở Đông Dương
và gửi đến đó một phái đoàn quân sự”.
Mặc dù việc mở rộng viện trợ đă được
quyết định trước khi nổ ra chiến tranh
Triều Tiên, và cũng chỉ được công bố sau
đó 2 ngày, nhưng cũng đủ là một phát
súng lệnh cho giới tư bản kinh doanh
kếch xù đang hoạt động trên một quy mô
lớn ở Đông Nam Á và rất mong muốn cho
cuộc chiến ở Đông Dương tiếp tục kéo
dài.
Với sự tham gia tích cực của Mỹ vào châu
Á, cuộc chiến Đông Dương đă đạt tới một
quy mô mới. Nó đă được “quốc tế hoá” và
trở thành một bộ phận của cuộc thập tự
chinh chống Cộng của Mỹ. Mỹ đă mang lại
sức sống cho cuộc chiến Đông Dương đúng
ngay giữa lúc dư luận công chúng Pháp
đang nghiêng về phía muốn gói ghém nó
lại. Quy mô mới này của cuộc chiến đă là
một nguồn kích thích mạnh mẽ cho tất cả
những thế lực chính trị và thương mại ở
Pháp đang theo đuổi cuộc chiến tranh cho
đến “thắng lợi cuối cùng”. Nhưng nó cũng
làm cho nước Pháp càng phụ thuộc thêm
vào Mỹ, ngay cả trên các lĩnh vực mà
Pháp đă cố gắng giành giật lấy một sự
độc lập tương đối trong chính sách của
ḿnh. Kết quả là ở Pháp, số người Pháp
kiếm được lời lớn nhờ việc kéo dài cuộc
chiến đă tăng lên rất nhiều.
Ở tầm cỡ quốc tế, cuộc chiến không chỉ
đă đưa lại quy mô mới đă nói ở trên mà
c̣n cả một vấn đề ư thức trách nhiệm,
thậm chí là ư thức phạm tội, mà điều này
đă trở thành lư lẽ cho người Pháp cũng
như người Mỹ sử dụng làm đ̣n bẩy để thực
hiện những mục tiêu cuối cùng của họ. Đă
có ư kiến là trong khi cuộc chiến Đông
Dương, đă và tiếp tục sẽ c̣n là một cuộc
chiến của Pháp, do người Pháp điều khiển
để nhằm đạt được một mục tiêu của Pháp
(chủ nghĩa thực dân) th́ “hành động cảnh
sát” của Mỹ ở Triều Tiên chủ yếu lại là
một cuộc chiến của Mỹ, do các tướng Mỹ
điều khiển, người và tài chính do Mỹ
cung cấp và chỉ nhằm phục vụ cho một mục
tiêu của Mỹ ở châu Á (ngăn chặn chủ
nghĩa Cộng sản). Qua sự chống đối cố hữu
về các mục tiêu nói trên (“thuyết
domino” chống với chủ nghĩa thực dân),
người ta cũng có thể giải thích được khá
nhiều về những bất đồng đă nảy sinh ra
giữa Mỹ và Pháp trong thời kỳ 1950-1954.
Một sự thật hiển nhiên là nếu không có
viện trợ Mỹ, Pháp đă không thể theo đuổi
được cuộc chiến tranh ở Đông Dương,
nhưng chúng ta đă thiếu sót trong việc
sử dụng cái đ̣n bẩy to lớn đó để ép Pháp
phải có những bước đi tích cực hơn nữa
trong việc trao hoàn toàn độc lập cho
các quốc gia liên hiệp. Xem xét các mối
quan hệ Pháp - Mỹ trong thời gian từ
1950 đến 1954, cho thấy rơ đ̣n bẩy của
Mỹ đă được sử dụng một cách hết sức hạn
chế và chính v́ ưu tiên trong chính sách
Mỹ lại đặt ở vấn đề ngăn chặn Cộng sản ở
châu Á, nên giữa hai nước với nhau th́
áp lực của Pháp đối với Mỹ lại mạnh hơn.
Điều này cũng chẳng bao hàm ư nghĩa là
nếu các quan điểm của Mỹ thắng thế th́
vấn đề Cộng sản ở Đông Dương cũng sẽ
được giải quyết. Cuộc đấu tranh của Việt
Minh để giành độc lập hoàn toàn đứng
trên một b́nh diện Xă hội chủ nghĩa vẫn
cứ tiếp tục, nhưng nó cũng có khả năng
được các giới tư bản phương Tây chấp
nhận nhiều hơn.
Đúng là áp lực của Pháp thực ghê gớm.
Trong thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh,
Pháp tương đối yếu và phụ thuộc vào Mỹ
qua khối NATO và Kế hoạch Marshall để có
an ninh quân sự và phục hồi lại nền kinh
tế. Trong cả hai lĩnh vực đó đều có
những điểm tựa có thể sử dụng để tác
động đến chính sách Pháp ở Đông Dương.
Cả NATO và Kế hoạch Marshall đều được
Chính phủ chúng ta và công chúng đánh
giá là hết sức quan trọng đối với quyền
lợi quốc gia Mỹ, trong khi đă được xác
nhận rơ ràng là có một mối đe doạ của Xô
viết đối với Tây Âu. Việc Cộng sản nắm
chính quyền ở Pháp là một khả năng hiện
thực (Lúc đó đảng Cộng sản Pháp là một
đảng chính trị lớn nhất và đấu tranh
mạnh nhất ở Pháp). Do đó, một sự đe doạ
của Mỹ về việc rút viện trợ quân sự
chính trị cho Pháp nếu Pháp không chịu
thay đổi chính sách ở Đông Dương, là
điều không thể chấp nhận được và sẽ gây
nguy hại cho quyền lợi Mỹ ở châu Âu,
quan trọng hơn rất nhiều so với bất cứ
cái ǵ ở Đông Dương.
Chỉ có nguồn duy nhất khác để gây ảnh
hưởng là chương tŕnh viện trợ quân sự
cho Đông Dương. Ở đây, đ̣n bẩy của chúng
ta lại bị các viên chỉ huy mặt trận của
Pháp ràng buộc một cách ngặt nghèo.
Tướng H.E. Navarre cho rằng ngoài công
việc kế toán ra th́ mọi chức năng của
US-MAAG(5) ở Sài G̣n đều là can thiệp
vào công việc nội bộ của Pháp. Ngay cả
khi đă nhận thức được rằng không có viện
trợ Mỹ th́ thực khó mà tiếp tục được
cuộc chiến tranh, nhưng người Pháp cũng
không bao giờ cho phép người Mỹ tham gia
vào công tác đặt kế hoạch chiến lược
hoặc định các chính sách. Hơn thế nữa,
như trong năm 1945, người Pháp đă nghi
ngờ viện trợ kinh tế Mỹ nhằm lôi kéo
những người quốc gia Việt Nam và đă yêu
cầu chúng ta cung cấp viện trợ “không có
ràng buộc kèm theo” và thực sự không có
sự kiểm soát về mặt sử dụng các hàng
viện trợ đó. Qua thái độ này, cũng vào
năm 1945, là một sự nghi ngờ ngấm ngầm
cho rằng Mỹ muốn thay thế hoàn toàn
người Pháp ở Đông Dương, về mặt kinh tế
cũng như về mặt chính trị.
Nỗi sợ hăi quá mức đối với cái bóng ma
Cộng sản đă là một điều làm hại chúng
ta. Không có lúc nào chúng ta đă xem xét
tới khả năng khối Trung - Xô lại có thể
là thực sự đáng sợ đối với chúng ta như
chúng ta đă sợ họ.
Cũng chẳng bao giờ các chiến lược gia và
các nhà quyết định chính sách của chúng
ta đă xác định được những mục tiêu thiết
thực và có khả năng đạt được hơn với
những định mức nhất định cho sự phát
triển kinh tế và chiến lược của chúng
ta, và đưa ra được một chính sách quốc
gia dựa trên tham vọng toàn cầu, để có
thể v́ thế mà sự chung sống với thế giới
Cộng sản đă được trả giá ít đắt đỏ và
mang lại hiệu quả nhiều hơn. Như trước
đây và bây giờ cũng vẫn c̣n ít nhiều như
vậy để đối phó với mỗi “mối đe doạ của
Cộng sản”, chúng ta chỉ bước được theo
điệu nhảy của người Xô viết mà thôi và
rất ít khi đứng được trên một lập trường
sức mạnh đưa vào những kế hoạch đă được
chuẩn bị sẵn sàng và vững vàng. V́ sợ,
không có quyết tâm và hám lợi, chúng ta
đă phải chịu khuất phục trước những doạ
nạt của cả bạn bè và kẻ thù.
Trong những năm đầu thập kỷ 1950, Pháp
đă có khả năng làm áp lực với Mỹ, chính
v́ ở Washington người ta đă quá tin ở
điều cho việc bảo vệ một Đông Dương
không Cộng sản là sống c̣n đối với quyền
lợi của phương Tây và đặc biệt là của
Mỹ. Điều cơ bản nhất là Pháp đă tiến
hành một cuộc chiến mà chúng ta cho là
rất cần thiết. Do đó, người Pháp bao giờ
cũng có thể, chỉ bằng cách đe doạ rút
lui khỏi Đông Dương, cũng giành được
nhân nhượng và giúp dỡ thêm. Khi nước
Pháp thấy đă mệt mỏi về “cuộc chiến bẩn
thỉu”, th́ đó cũng chẳng phải là một
điều không được đông đảo quần chúng
trong nước Pháp tán thành. Năm 1953, khi
chính phủ Laniel yêu cầu gia tăng mạnh
mẽ viện trợ Mỹ, đại diện của Bộ Ngoại
giao trong buổi họp của Hội đồng An ninh
Quốc gia đă phân tích “nếu chính phủ
Pháp này đang đề nghị chúng ta tăng
cường viện trợ cho Đông Dương mà không
được chúng ta giúp đỡ trong lúc này, th́
đó cũng là chính phủ cuối cùng đă có một
sự cố gắng thật sự để giành thắng lợi ở
Đông Dương”.
Thành công của những thủ
đoạn này là ở chỗ viện trợ của chúng ta
đă được sử dụng để tăng thêm ít nhiều
hiệu quả và quyết tâm chiến đấu của
Pháp, chúng ta cũng đă có thể thúc đẩy
Paris đặt ra kế hoạch Navarre điển h́nh,
nhưng chúng ta đă không ảnh hưởng ǵ
được tới cách điều khiển chiến tranh của
Pháp hoặc đưa Pháp tới giải quyết vấn đề
tranh chấp bằng chính trị..
Điều cám dỗ phải “đi cùng” với người
Pháp cho tới khi nào Việt Minh bị đánh
bại là hấp dẫn nhất v́ hy vọng thắng
trận vẫn lan tràn trong giới chính quyền
Washington. Trước Điện Biên Phủ, tướng
J.W. O'Daniel, chỉ huy MAAG ở Sài G̣n,
đă báo cáo cụ thể là có thể giành chiến
thắng nếu như Mỹ tiếp tục chi viện. Vào
tháng 11-1953, ông ta lại đệ tŕnh một
bản báo cáo về Kế hoạch Navarre, nói
rằng quân đội Liên hiệp Pháp nắm quyền
chủ động và sẽ mở các chiến dịch tấn
công vào giữa tháng 1-1954; đồng thời sẽ
ḱm giữ và phá lợi thế của Việt Minh ở
đồng bằng Bắc Kỳ cho tới tháng 10-1954,
để khi đó Pháp sẽ mở một cuộc tiến công
quyết định trong vùng bắc vĩ tuyến 19.
O'Daniel kết luận kế hoạch Navarre cơ
bản là tốt và sẽ được ủng hộ, v́ nó sẽ
đưa lại thắng lợi quyết định.
O'Daniel đă không biết được ông và chính
phủ ông đă bị lừa. Trong một bản báo cáo
mật gửi chính phủ Pháp vào cuối năm 1953
(đă được đưa ra trong bản hồi kư của
ḿnh năm 1956), chính Navarre đă tuyên
bố là không phải giành lấy thắng lợi
trong chiến tranh theo đồng nghĩa quân
sự của nó một cách đơn giản, mà tất cả
những ǵ có thể hy vọng được chỉ là một
“coup nul”(6) - một đ̣n tháo gỡ ra ngoài
cuộc. Cả O’Daniel và các quan chức Bộ
Ngoại giao chúng ta đều không biết về
những chỉ thị tuyệt mật của Hội đồng
Quốc pḥng Pháp gửi cho Navarre, ra lệnh
cho ông ta phải pḥng thủ Lào, nếu có
thể được, nhưng “trước hết, phải bảo đảm
an toàn cho đội quân viễn chinh Pháp” và
chuẩn bị, bằng những điều kiện quân sự
tốt nhất mà ông ta có thể làm được, để
đi đến thương lượng.
Một vấn đề quan trọng khác giúp làm đ̣n
bẩy cho Pháp là t́nh h́nh ở châu Âu. Một
mục tiêu ưu tiên trong chính sách đối
ngoại Mỹ năm 1953-1954 là việc thành lập
một cộng đồng pḥng thủ châu Âu (EDC) để
“trùm lên” một quân đội Tây Đức mới được
đặt trong một lực lượng liên kết Đồng
minh để pḥng thủ Tây Âu. Pháp không
nhiệt t́nh tham gia EDC do Mỹ bảo trợ,
v́ một mặt Pháp sợ một nước Đức vũ
trang, mặt khác Pháp không đồng t́nh với
Mỹ về một cuộc xâm lược của Xô viết vào
châu Âu. Nhưng Pháp tham dự EDC lại là
cần thiết để 5 nước tham dự khác chấp
thuận vào cộng đồng, do đó Mỹ phải ra
sức thuyết phục Pháp. Chính v́ sự ưu
tiên cao đối với EDC trong kế hoạch của
Mỹ, nên chúng ta đă phải miễn cưỡng rất
nhiều trong việc chống chọi với Pháp ở
Đông Dương, đă không thấy ngay được một
sự mâu thuẫn ngầm trong chính sách của
chúng ta thúc ép Pháp cùng một lúc vừa
phải chấp nhận vào EDC, vừaa phải có cố
gắng lớn hơn nữa ở Đông Dương đang đ̣i
hỏi Pháp tăng cường lực lượng sang Viễn
Đông. Nhưng Quốc hội Pháp sẽ không chấp
nhận EDC nếu như, ít nhất, Pháp không
được bảo đảm là quân đội Pháp ở châu Âu
sẽ được cân bằng với quân đội của Đức.
V́ thế, Pháp đă viện cớ là việc tham gia
EDC có khả năng ngăn trở Pháp đưa thêm
lực lượng sang Đông Dương.
Lại c̣n một đ̣n bẩy khác thể hiện trong
khả năng Pháp có thể đưa vấn đề Đông
Dương ra bàn ở Hội nghị Genève. Điều đó
đă xảy ra trong cuộc họp của các Ngoại
trưởng Tứ cường tháng 2-1954 ở Berlin.
Hội nghị Genève sẽ họp bàn để t́m một
giải pháp chinh trị cho cuộc chiến Triều
Tiên. Bộ trưởng Ngoại giao J. Foster
Dulles không muốn thương lượng về Đông
Dương nếu như chưa có được một sự cải
thiện rơ rệt trong t́nh h́nh quân sự của
Pháp để họ phải điều đ́nh trên một thế
mạnh hơn rất nhiều.
Nhưng chính phủ Laniel, dưới áp lực ngày
càng mạnh của dư luận công chúng Pháp
muốn kết thúc chiến tranh Đông Dương,
mặc dù đă có sự phản dối của chúng ta,
nhưng vẫn cố nài đưa vấn đề Đông Dương
ra bàn ở Hội nghị Genève. Có tin nói Bộ
trưởng Ngoại giao Bidault đă báo cho
biết là nếu chúng ta không chấp thuận
th́ EDC chắc chắn sẽ bị nhấn ch́m.
Tổng hợp các nhân tố đó lại, thấy thực
tế chúng ta đă để cho chúng ta bị kẹt
trong việc đưa ra một đường lối hợp lư
đối với Việt Nam từ 1950 đến 1954. Chúng
ta đă bị giam chặt bởi chính ngay
“thuyết domino” của chúng ta, bởi những
hy vọng lạc quan của chúng ta về một
chiến thắng quân sự của Pháp, bởi sự
thiếu sót trong việc đưa ra các định mức
thực tế trong các chính sách chống Cộng
được dựa vào các kế hoạch vững chắc và
v́ đă để cho các nhu cầu kinh tế trong
nước của chính chúng ta đóng một vai tṛ
quá lớn. Về phía Pháp, trong cuộc đấu
tranh, đồng thời nhưng hoàn toàn khác,
để nhằm giữ lại thuộc địa Đông Dương cũ
của họ, Pháp đă sẵn sàng ngăn chặn mọi
chủ trương khác bằng cách chối từ không
cho Bảo Đại bất kỳ một sự tự trị thực sự
nào, ḱm hăm sự phát triển của quân đội
Quốc gia Việt Nam, và sử dụng đ̣n bẩy to
lớn của họ trong các khó khăn ở châu Âu
để thủ tiêu các cố gắng chống thực dân
Pháp của chúng ta ở Việt Nam.
***
T́nh h́nh chiến tranh Việt Nam càng ngày
càng tồi tệ đă nói lên rất rơ những thất
bại về chính trị của chúng ta suốt trong
4 năm đó. Cuối năm 1949, quân Pháp dưới
quyền của tướng M. Carpentier đă mất
quyền chủ động, và tháng 1-1950, tướng
Giáp đă mở một loạt các chiến dịch chống
lại người Pháp. Qua cuộc tấn công đầu
tiên Giáp không uy hiếp trực tiếp vùng
chiến lược đồng bằng sông Hồng và từ
tháng 2 đến tháng 4 đă xúc tiến những
chiến dịch quy mô lớn nhằm đảm bảo cho
Việt Minh kiểm soát cả miền đông bắc Bắc
Bộ. Trong mùa hè 1950, khi quân Liên hợp
quốc đánh đi đánh lại xuyên qua bán đảo
Triều Tiên, Giáp lại bồi thêm thất bại
cho quân đội Carpentier trên hành lang
Lạng Sơn - Cao Bằng. Vừa bị đánh bại
trong các cuộc hành quân với Giáp, người
Pháp c̣n bị chính phủ trong nước họ làm
mất tinh thần v́ quyết định giảm đi
9.000 quân ở Đông Dương. Quốc hội Pháp
đă bày tỏ t́nh cảm của ḿnh tiếp tục ủng
hộ cuộc chiến đấu bằng cách yêu cầu
chính phủ không được đưa lính mới gọi
nhập ngũ sang bổ sung cho Đông Dương.
Sau hơn 3 năm chiến đấu không mang lại
được kết quả ǵ, người Pháp vẫn đánh giá
thấp quyết tâm của Việt Minh và đánh giá
quá cao ḷng dũng cảm của chính ḿnh.
Khi mà lính thuỷ đánh bộ của chúng ta đổ
bộ ở Inchon, Triều Tiên giữa tháng 9,
th́ Giáp cũng mở trận tấn công vào thị
trấn chiến lược Đông Khê (20 dặm đông
nam Cao Bằng). Đồn quân của Pháp ở Cao
Bằng đă hoảng sợ bỏ chạy về phía Nam và
bị tổn thất nặng nề trên đường rút lui.
Ngày 17-10, Pháp rút bỏ Lạng Sơn và đến
cuối tháng th́ toàn bộ nửa phần Bắc Bộ
đă lọt vào tay Việt Minh, và không bao
giờ quân Pháp c̣n đặt chân tới đó được
nữa. Như một nhà văn đă viết “Khi đám
khói tan đi, người Pháp mới thấy đă phải
chịu một thất bại ở thuộc địa lớn nhất
kể từ khi Montcalam chết ở Quebec”(7).
Ở chính quốc Pháp là một t́nh h́nh không
thể chịu đựng được nữa. Thua trong nhiều
trận đánh là điều có thể tha thứ được,
nhưng thua cuộc chiến Đông Dương sẽ là
một tai hoạ cho số thực dân và những
người cầm đầu buôn bán chiến tranh ở
Pháp. Trước đó mấy tháng, Pháp đă yêu
cầu sự viện trợ của chúng ta dựa trên cơ
sở hứa hẹn cuộc chiến phải được tiến
hành một cách thắng lợi. Mấy tuần sau đó
(tháng 5-1950), Tổng thống Truman đă cho
mở một ngân khoản và đặt ra một Phái
đoàn Viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) để đến
tháng 6 chúng ta chỉ c̣n việc ra sức cổ
vũ người Pháp. Nhưng đến tháng 11 th́
cuộc chiến Đông Dương đă chuyển thành
một cuộc tháo lui nhục nhă. Đó là một sự
bối rối không thể nào chịu được đối với
người Pháp kiêu hănh và làm dấy lên
những hoài nghi nghiêm trọng ở Pháp cũng
như ở Mỹ về việc quân Pháp có thể giành
dược thắng lợi quân sự đang mong muốn.
Bộ chỉ huy tối cao Pháp trong một thời
gian đă tỏ ra rất lo lắng về t́nh trạng
cuộc chiến không thể tiến triển được:
thực tế nó đă trở thành bế tắc. Sau lần
đi thanh tra về, tướng G. Revers đă đề
nghị phải có một số thay đổi về chính
trị và quân sự, nhưng tất cả những điều
đó đều không được bộ máy chỉ huy quân sự
và chính phủ Pháp ưa chuộng. Nhiều phần
trong bản báo cáo tối mật của Revers đă
“được tiết lộ” cho những người Cộng sản
Pháp biết, và vào tháng 4-1950, trước sự
kinh ngạc của người Pháp, nhiều đoạn
nguyên văn trong báo cáo đă được phát đi
từ Đài phát thanh Việt Bắc (đài phát
thanh Việt Minh).
Nguy hại hơn nữa là phần chính trị trong
báo cáo Revers cũng lại “bị tiết lộ” và
được mọi người biết và gọi là “vụ án các
tướng”, một vụ bê bối của quốc gia phản
ảnh mặt trái hành vi của một số tướng
Pháp.
Vụ bê bối các thất bại quân sự đặt ra
vấn đề lại phải có thay đổi trong chỉ
huy và “điệu nhảy valse cho các tướng”
lại tiếp tục. Từ Leclerc năm 1945 đến
Valluy, Blaizot, rồi Carpentier, nay
thêm De Lattre tháng 12-1950 và tiếp
theo nữa là Salan, Navarre và cuối cùng
là Ély. Tướng De Lattre nắm quyền chỉ
huy thay tướng Carpentier và cũng thay
Pignon để làm Cao uỷ Pháp. Trước mắt ông
ta là một quân đội mất tinh thần, bại
trận, bị sứt mẻ, tháo chạy từ vùng đông
bắc Bắc Kỳ về Hà Nội đầy những thường
dân hoảng loạn đang chuẩn bị trốn chạy
trước cuộc đột kích của Việt Minh. Họ đă
nghe đài phát thanh Việt Bắc nói chính
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sắp trở
lại Hà Nội, và cộng đồng người Pháp cũng
đang ở trong t́nh trạng hết sức hoang
mang. Lại có tin đồn Giáp đă hứa với Hồ
Chí Minh là ông sẽ vào Hà Nội trong ngày
Tết âm lịch, tháng 2-1951.
Dưới áp lực của công chúng; chính phủ
Pháp đă phải cho đưa tàu Pasteur, chiếc
tàu khách to nhất c̣n lại lúc đó sang
Đông Dương để di tản tất cả thường dân
Pháp đi khỏi Bắc Việt Nam. Nhưng De
Lattre, một con người nổi tiếng về mọi
phương diện, đă không nói đến chuyện rút
lui, mà cũng chẳng muốn chịu thua mà
không chiến đấu. Ông ta đă cho chuyển
xuống tàu Pasteur toàn những binh lính
bị thương tới 2/3 chuyến tàu và cho chở
về Pháp, mặc cho nghị viện ở Paris la ó
và bất b́nh.
De Lattre, một trong những viên tướng có
năng lực của Pháp trong Thế chiến thứ
hai, được đánh giá cao là một viên tư
lệnh chiến trường và nhà chiến lược.
Nhưng cá tính độc đoán của ông, thường
được so sánh chẳng kém ǵ D'Argenlieu,
sẽ làm cho các giới giao tiếp cá nhân và
tập thể với ông hết sức khó khăn. Tính
kiêu kỳ và tính khí của ông làm cho các
người dưới quyền khiếp đảm và họ đă gọi
(sau lưng) ông ta là “Vua Jean”. Không
nói đến đặc điểm cá tính th́ phải nhận
rằng De Lattre là một người lănh đạo và
gây được tin tưởng. Khi được hỏi tại sao
lại nhận lấy một sự nghiệp nhiều phần
được coi như là thất bại rồi, ông đă trả
lời là chưa thất bại và ông đang chiến
đấu trong một đội Thập tự quân chống lại
Cộng sản. Trái với quan điểm của nhiều
người lúc bấy giờ, cho rằng Bộ chỉ huy
tối cao Pháp đă đề cử ông cốt để làm dịu
những lời chỉ trích của Bộ Tổng Tham mưu
trong vụ bê bối của các tướng và để chủ
tŕ cho sự cáo chung một cách có hệ
thống Đế quốc Pháp ở Viễn Đông, De
Lattre lại cho thấy nhiều dấu hiệu ông
không có ư định rút lui. Như đă nói ở
trên, ông ta hy vọng sẽ chiến thắng
trong ṿng 15 tháng.
Việc đầu tiên ông ta thực hiện là chuyển
từ hỗn loạn sang trật tự, từ thất vọng
sang hy vọng, từ lănh đạm sang chủ động
và không phải chỉ ở trong quân đội của
ông mà trong cả thường dân Pháp và những
người Việt không Cộng sản. Ông hứa hẹn
ít: không cải tiến, không tăng cường,
không có thắng lợi dễ dàng mà chỉ có
nhiều hy sinh hơn nữa. Và, với quân đội,
ông nói “Không có vấn đề ǵ cả, các
người sẽ được chỉ huy”. Đối với những
người lính trước đây đă rất ít khi hiểu
được họ làm ǵ ở Đông Dương, th́ đây là
một lời tuyên bố tích cực đầu tiên của
Bộ chỉ huy tối cao. C̣n với danh nghĩa
là Cao uỷ, ông đă đặt ra nhiệm vụ pḥng
vệ cho các thường dân Pháp ở Đông Dương,
và đă trưng dụng mà không cần báo trước
các máy bay dân sự cua Pháp khi hạ cánh
xuống Sài G̣n để chuyên chở lực lượng
tăng viện ra mặt trận.
De Lattre chưa có mặt ở Đông Dương một
tháng trước khi Giáp thực hiện “giai
đoạn cuối cùng” cuộc tổng tiến công để
đẩy người Pháp ra khỏi đồng bằng và
chiếm lại thủ đô Hà Nội. Giáp đă tấn
công vào quân đội De Lattre ở chung
quanh Vĩnh Yên ngày 16-1. Sau thắng lợi
ban đầu của Việt Minh, hoả lực của Pháp
có bom napall không quân hỗ trợ, đă giúp
giành lại được ban ngày, và bộ đội của
Giáp rút khỏi chiến trường ngày 17.
Không hề nản sau trận thất bại đầu, Giáp
tập hợp lực lượng và lại đánh vào Mạo
Khê (15 dặm bắc đông bắc Hái Pḥng).
Trận đánh bắt đầu từ đêm 23-24 tháng 3
và kéo dài đến chiều ngày 28. Một lần
nữa, Giáp lại không phá được tuyến pḥng
thủ của Pháp; Pháp chỉ bị 40 người chết
và 150 người bị thương.
Một cuộc tấn công thứ ba, ít tham vọng
hơn, đă xảy ra ngày 29-5, dọc bên bờ
sông Đáy, khoảng 60 dặm nam Hà Nội. Mặc
dù đă giành được ít nhiều thắng lợi ban
đầu, nhưng trận đánh đă kết thúc ngày
18-6.
Giáp chưa chuẩn bị đầy đủ cho “giai đoạn
cuối cùng” và mùa mưa tới đă làm gián
đoạn các chiến dịch của ông.
Nhưng De Lattre thấy ông ta không thể
bảo vệ 7 triệu dân và 7.000 dặm vuông
đất đai đồng bằng Sông Hồng v́ thiếu
binh lực nên đă vội vàng cho xây một
loạt các cứ điểm mạnh từ Móng Cái tới
Vĩnh Yên (45 dặm bắc Hà. Nội) rồi về
phía nam tới bờ biển. Hệ thống cứ điểm
pḥng ngự này được gọi là “pḥng tuyến
De Lattre” và cũng giống như pḥng tuyến
Maginot nổi tiếng.
Các tuyến pḥng thủ cố định này luôn
được tuần tiễu, nhưng Việt Minh cũng vẫn
dễ dàng xâm nhập qua được.
“Tuyến De Lattre” và các đơn vị cơ động
tuần tiễu đ̣i hỏi phải có khoảng 1 vạn
lính mà De Lattre khó ḷng cung cấp đủ
nếu ông c̣n muốn để quân t́m đánh Việt
Minh. Nhưng Bộ Tổng Tham mưu Pháp đă
đồng ư cho xây dựng pḥng tuyến do tướng
Revers đề ra từ tháng 5-1949, mà lại
không cho tăng thêm quân số. Sự chống
đối chính trị ở Pháp không cho gửi lính
mới nhập ngũ sang Đông Dương nên đă tước
bỏ mọi hy vọng có thêm quân tăng viện từ
chính quốc. Chỉ c̣n có một giải pháp
khác: quân đội Quốc gia Việt Nam.
Với tư cách là quốc
trưởng, Bảo Đại có thể gọi một đội quân
quốc gia, nhưng ông ta đă cưỡng lại
không làm. Ông ta không có những nhà
lănh đạo quân sự. Người Pháp cũng đă
không đào tạo ra được người Việt Nam nào
có cấp bậc cao hơn những người chỉ huy
các đơn vị nhỏ hoặc thông thạo các vấn
đề chiến lược. Bảo Đại c̣n bị các quan
chức cai trị Pháp chống đối mạnh mẽ, số
này vốn là tay chân của Pignon, người
được De Lattre thay thế, và đi theo
đường lối của đảng Cộng hoà B́nh dân và
Tập hợp Dân chúng Pháp chống lại việc có
một đội quân người bản xứ không do Pháp
trực tiếp kiểm soát. Sau cùng là Bảo Đại
cũng lo một đội quân như thế rất có thể
sẽ chạy hàng loạt sang phía Việt Minh.
Chính De Lattre (khi đó c̣n ở Pháp) đă
gạt bỏ được sự chống đối đó và thuyết
phục người Pháp là cần có một quân đội
quốc gia do người Việt Nam chỉ huy để đỡ
gánh nặng quân sự cho Pháp. De Lattre đă
tác động đến thái độ của Pháp và sau đó
một học viện quân sự đă được mở ra vào
tháng 11-1950. Nhưng các sĩ quan tốt
nghiệp học viện lại chỉ được phục vụ
trong đội quân viễn chinh Pháp, được đưa
vào các đơn vị “da vàng” của quân viễn
chinh, có nghĩa là họ không phải là quân
nhân Việt Nam, mà là quân nhân Pháp. Đó
không phải là đúng như ư định của De
Lattre và càng thúc bách Bảo Đại và thủ
tướng Trần Văn Hữu của ông ta phải lập
một quân đội quốc gia.
Cuối cùng, đến tháng 7-1951, Bảo Đại cho
tiến hành cuộc gọi quân đầu tiên, nhưng
chỉ có một số ít người đáp lại. Các nhà
chức trách quốc gia cũng như địa phương
đă không nhiệt t́nh hưởng ứng v́ sợ có
ảnh hưởng không hay về chính trị. Nhiều
thanh niên, để trốn bị động viên đă đi
theo các đơn vị dân binh Cao Đài hoặc
Hoà Hảo. De Lattre nổi cáu, đă nói với
một toán tân binh “Hăy chiến đấu cho đất
nước các anh như những con người. Nếu
các anh là Cộng sản th́ hăy đi theo Việt
Minh. Ở đó cũng có người đang say mê
chiến dấu cho một lư tưởng tồi tệ!”(8).
De Lattre đă làm được nhiều việc trong
thời gian ngắn ngủi khi ông ở Đông
Dương, tuy chẳng có việc ǵ tác động
được đến bước kết thúc cuối cùng của
cuộc chiến tranh. Hoạt động của ông ta
đă bị chững lại v́ bị bệnh nguy kịch; vị
Thống chế tương lai của nước Pháp c̣n
phải chịu đựng cái chết bi thảm của
người con trai độc nhất, thiếu uư Bemard
De Lattre, hy sinh ở trận sông Đáy trong
đợt chiến dịch thứ ba không thành công
của Giáp nhằm chiếm lại đồng bằng và Hà
Nội.
Ông ta đă đến Washington (tháng 9-1951)
dể thảo luận vấn đề viện trợ Mỹ cho
Pháp, mà ông đánh giá cao, nhưng khi trở
về Paris th́ t́nh trạng sức khỏe bị suy
sụp. Nhưng ông ta vẫn cho rằng viện trợ
trực tiếp cho các quốc gia liên hiệp là
“có hại” và vẫn muốn viện trợ phải do
Pháp phân phối và qua con đường của
Pháp. Ông nói với Robert Blum, lúc đó
phụ trách chương tŕnh viện trợ kinh tế
Mỹ, “với tư cách là một người nghiên cứu
lịch sử, tôi có thể hiểu được điều đó
(viện trợ Mỹ), nhưng là người Pháp th́
tôi không thích”.
Blum (vào năm 1952) đă nói về cái tam
giác Bảo Đại - Pháp - Mỹ như sau:
“Một mặt là những lời tuyên bố chính
thức được nhắc đi nhắc lại là Pháp không
hề có quyền lợi vị kỷ ở Đông Dương, chỉ
mong muốn thực hiện độc lập cho các quốc
gia liên hiệp và ngăn chặn được sự xói
ṃn ghê gớm nguồn tài nguyên của Pháp.
Mặt khác lại là vô số các tỉ dụ về sự cố
t́nh kéo dài nền cai trị của Pháp, việc
can thiệp vào các vấn đề chính trị chủ
yếu, việc đầu cơ, thường xuyên căi vă và
nói xấu sự chuyến giao quyền lực và giải
quyết vấn đề độc lập…
Rơ ràng là có mâu thuẫn trong hành động
của Pháp giữa sự mong muốn rút ra khỏi
cuộc chiến không được dân chúng ủng hộ,
tốn kém và chắc chắn là không có kết
quả, với ư định được thấy nó kết thúc
trong danh dự, thoả măn được niềm tự hào
của Pháp, đồng thời lại bảo toàn được
quyền lợi. Sự khác biệt này đă thể hiện
một cách khá sâu sắc trong thái độ với
tướng De Lattre ở Đông Dương, nơi ông
được ca tụng như một thiên tài chính trị
và là một vị cứu tinh về quân sự… và đối
với ông, ở Pháp, bị người ta nghi ngờ
cho rằng chỉ v́ danh vọng cá nhân mà đem
tài nguyên của Pháp tiêu phí trong một
cuộc phiêu lưu nguy hiếm.
Về vấn để tham gia của Mỹ, Blum nói
tiếp:
“Thực khó mà đánh giá được kết quả của
gần 2 năm (1950-1952) Mỹ tích cực tham
gia vào công việc ở Đông Dương. Mặc dù
chúng ta đă lao vào một cuộc hợp tác
không dễ dàng, một mặt, với người Pháp
sặc mùi “thực dân” nhưng không thể tránh
khỏi, và mặt khác, với những người Việt
Nam yếu đuối và chia rẽ, nhưng chúng ta
cũng đă không có đầy đủ khả năng hoà
giải hai bạn đồng minh đó trong một cuộc
đấu tranh có xu hướng đặc biệt chống
Cộng”.
Và Blum kết luận:
“T́nh h́nh ở Đông Dương không làm cho
chúng ta hài ḷng và thể hiện không có
triển vọng tiến bộ có thể, không thể
giành được một chiến thắng quân sự quyết
định, chính phủ Bảo Đại có rất ít hứa
hẹn phát triển được tài năng và giành
được sự trung thành của dân chúng, và
việc đạt tới được các mục tiêu của Mỹ
thực là xa xôi”.
Phân tích và kết luận của Blum về thực
chất không khác ǵ các nhận xét của
thượng nghị sĩ John F. Kennedy khi ông
tới thăm Việt Nam tháng 11-1951 và đă
tuyên bố:
“… tự chúng ta đă ĺên minh với sự cố
gắng tuyệt vọng của chế độ Pháp nhằm duy
tŕ những tàn dư của một đế quốc. Nhưng
chính phủ Việt Nam bản xứ đă không có
được một sự ủng hộ rộng răi trong nhân
dân của vùng này”.
Tuy De Lattre đă làm cho Pháp được thảnh
thơi chút ít trước cuộc tiến công mănh
liệt nhưng không có kết quả của Việt
Minh, nhưng cuộc thương lượng đ́nh chiến
ở Triều Tiên bắt đầu từ tháng 7-1951 đă
làm cho cả Pháp và Mỹ lo ngại về khả
năng một cuộc xâm lược qui mô lớn của
Trung Quốc đối với Đông Dương. Điều đó
không có ǵ đáng ngạc nhiên v́ đă có một
số lớn quân Trung Quốc tập trung ở biên
giới Bắc Kỳ và nhiều đồ viện trợ đă được
cung cấp cho Việt Minh.
Pháp đă nhận định về mối đe doạ mới đó
với một nỗi hoảng sợ và thất vọng. Các
nhà làm chính trị của họ đă bắt đầu nghĩ
tới thương lượng và thoả hiệp với Việt
Minh khi mà lực lượng so sánh, theo họ
nghĩ, sẽ nghiêng về phía Pháp. Nhưng Mỹ
lại nhận định khả năng xâm lược của
Trung Quốc trong điều kiện địa vị quân
sự của Pháp tiếp tục suy sụp, nặng về
phía coi đó là một mối đe doạ của sự
bành trướng Cộng sản hơn là về việc mất
mát một thuộc địa của Pháp.
Sau các cuộc thất trận của Việt Minh vào
đầu 1951, Giáp đă phải xem xét lại chiến
lược của ḿnh và quyết định cho lui về
“giai đoạn hai” theo lư luận về chiến
tranh cách mạng, áp dụng trở lại các
chiến thuật du kích, quấy rối, tiêu hao
và làm suy yếu các cơ cấu pḥng thủ cố
định của Pháp. Trong khi De Lattre trở
về Pháp (1-12-1951), phó của ông ta,
tướng Raoul Salan, đă nắm quyền chỉ huy,
quyết đưa quân đi đánh Việt Minh. Nhưng
Giáp đă không tiếp chiến, trừ khi ông
thấy có thể đánh theo kiểu của ḿnh.
Quân Pháp đă đánh vào những chỗ trống
không và thường xuyên bị tổn thất nặng
nề. Các chiến sĩ Việt Nam đă làm cho
quân Pháp phải bộc lộ, đánh rồi biến mất
vào trong rừng. Hoặc họ có thể tiềm nhập
vào một vị trí của Pháp, đánh phá rồi
rút, gây thiệt hại, làm gián đoạn giao
thông liên lạc, gây thương vong nghiêm
trọng mà họ chẳng phải chịu tổn thất
nào.
Mùa thu năm 1951, các chính trị gia Pháp
cần một cách khốn khổ phải có được một
trận thắng ở Đông Dương. Quốc hội Pháp
chuẩn bị thảo luận ngân sách Đông Dương
tài khoá 1952-1953 và các nhà ngoại giao
Pháp ở Washington đang cố gắng thuyết
phục nhân dân chúng ta tăng thêm phần Mỹ
gánh vác các chi phí của cuộc chiến
tranh. Do đó, một “chiến thắng vang dội
ở Đông Dương, ngược lại với sự bế tắc ở
Triều Tiên, sẽ có một tác động mạnh đến
phái bồ câu ở Paris và gây xúc động cho
Quốc hội Mỹ ở Washington”.
De Lattre, trong khi chỉ c̣n ở lại Đông
Dương ít tuần lễ nữa, đă chọn giành một
thắng lợi dễ dàng bằng cách cho chiếm
thủ đô yên tĩnh của dân tộc Mường, Hoà
B́nh (khoảng 40 dặm tây nam Hà Nội).
Quân Pháp chiếm đô thị này chiều ngày
14-11-1951 mà không gặp một sự đề kháng
nào. Cho rằng Việt Minh sẽ không thể
phản kích, trong những lần tiếp sau,
Pháp đă đưa thêm một số lớn thiết giáp,
pháo binh và binh lính vào thung lũng
sông Đà bên cạnh, dự định tiến vào trung
tâm căn cứ của Giáp ở vùng đông bắc (?).
Đó là một quyết định tồi! Giáp đă không
chịu tiếp chiến vào lúc đó, theo cách
đánh của Pháp, nhưng ông đă không bỏ lỡ
khả năng đánh tiêu hao quân Pháp trong
lúc họ nghỉ ngơi.
Pḥng ngự của Pháp dựa vào một loạt các
đồn bốt ngoại vi dọc sông Đà và đường 6,
bắc và đông Hoà B́nh. Giáp đă tấn công
vào đồn chính ở Tu Vũ (độ 20 dặm bắc Hoà
B́nh) ngày 9-12 và chưa đến 24 giờ sau,
đă đuổi được quân Pháp chạy qua sông Đà.
Trận Tu Vũ chỉ là một điềm dữ. Các cuộc
chiến đấu giằng co để giành kiểm soát
sông Đà đă diễn ra suốt trong tháng 12,
trong khi người Pháp ngoan cố tăng cường
người và trang bị cho các vị trí của họ.
Và Giáp đă đánh theo luật lệ của ông ta.
Việt Minh ẩn nấp trong vùng núi đá vôi
gần đó, lại xuất hiện vào tháng 1-1952
để dùng chiến thuật của Giáp đánh tiêu
hao quân Pháp. Đến cuối tháng, thấy rằng
nỗ lực cũng không mang lại kết quả ǵ,
Salan cho rút toàn bộ mũi tấn công Hoà
B́nh, cứu thoát binh lực và trang bị để
chuẩn bị cho các trận đánh sau này ở
đồng bằng và vào vùng cao nguyên người
Thái (bắc Bắc Kỳ từ phía tây sông Hồng
tới biên giới Lào).
Trận “chiến thắng vang dội” đă không
h́nh thành được mà quân đội và trang bị
của Pháp lại bị hao tổn thảm hại. T́nh
trạng suy sụp của quân Pháp đă trở thành
mối lo ngại chủ yếu cho chính phủ Pháp,
cũng như cho những người hoạch định
chính sách Mỹ. Khả năng có thể xảy ra
một cuộc xâm lăng của Trung Quốc đè nặng
lên sự suy nghĩ của Bộ tham mưu Liên
quân và các nhà ngoại giao chúng ta.
Đầu năm 1952, Hội đồng An ninh Quốc gia
đă kết luận là sự can thiệp của Mỹ sẽ
được hạn chế trong việc đối phó với một
cuộc xâm lăng trực tiếp của Trung Quốc.
Trong khi không xảy ra t́nh huống đó,
nhưng lại phải đương đầu với t́nh h́nh
đang diễn ra, Hội đồng An ninh Quốc gia
đă khuyến cáo chúng ta phải gia tăng mức
viện trợ cho quân đội Liên hiệp Pháp
nhưng “không được làm giảm nhẹ trách
nhiệm cơ bản về quân sự của các nhà chức
trách Pháp trong công cuộc pḥng thủ
Quốc gia Liên hiệp”.
Tổng thống Truman đă thông qua một bản
Tuyên bố chính sách về “các mục tiêu và
phương hướng hoạt động của Mỹ đối với
Đông Nam Á”, do Hội đồng An ninh Quốc
gia đệ tŕnh ngày 25-6-1952, trong đó có
đoạn viết
“Cho thực hiện các phương hướng tối
thiểu sau đây về hành động quân sự, hoặc
dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc hoặc
là cùng với Pháp và Anh, và chính phủ
bạn nào khác:
1) Một sự pḥng thủ kiên quyết bản thân
Đông Dương, trong đó Mỹ sẽ cung cấp sự
hỗ trợ về đường không và đường biển ở
mức độ có thể thực hiện được.
2)Cắt đứt các đường giao thông của Trung
Cộng, bao gồm cả các tuyến trong đất
Trung Quốc.
3) Mỹ hy vong sẽ cung cấp được các lực
lượng chủ yếu để thực hiện công tác trên
mục 4)…
Thất bại của Pháp đầu năm 1952 này đă
làm đảo lộn quyết định của các nhà hoạch
định chính sách của chúng ta; họ sợ sự
bành trướng của Cộng sản đến mức đă cam
kết đưa quân đội của chúng ta tham gia
vào một cuộc chiến tranh thực dân của
Pháp. Chim Hải âu, điềm lành trời mang
lại cho nước Mỹ, đă vỗ cánh lên đường
bay qua biển cả.
***
Vào lúc này, Đông Dương đă có một vị Cao
uỷ mới, Jean Letourneau. Ông là một
người Công giáo cánh hữu, đảng viên
phong trào Cộng hoà B́nh dân có đường
lối thực dân, trước là Bộ trưởng Pháp
quốc Hải ngoại rồi trở thành Bộ trưởng
các Quốc gia Liên hiệp. Tháng 4-1952,
khi ông thay De Lattre làm Cao uỷ th́
ông vẫn giữ chức Bộ trưởng. Sự kiêm
nhiệm đó đă mang lại cho ông những quyền
hành lớn lao ở Việt Nam “độc lập” hơn
bất kỳ một viên cựu toàn quyền nào trong
thời buổi chế độ thực dân. Đ̣n chính trị
của Letourneau được sử dụng để ḱm hăm
chế độ Bảo Đại vào tháng 6-1952 là thủ
tướng Trần Văn Hữu đă phải trao quyền
cho thủ trưởng cơ quan mật thám chính
trị của ông ta là Nguyễn Văn Tâm, tuy cả
hai đều là công dân Pháp.
Một Phái đoàn điều tra của Quốc hội Pháp
sau này (tháng 5-1953) đă lên án
Letourneau thực hiện “một chế độ độc tài
thực sự, không bị hạn chế hoặc kiểm
soát”. Phái đoàn gồm có một đảng viên Xă
hội, một Độc lập, một Cộng hoà B́nh dân,
và một Xă hội cấp tiến, đă phát biểu:
“Bè lũ trong dinh Norodom” tự cho ḿnh
cái hào nhoáng là cai trị theo kiểu cách
Pháp và trị v́ trên một đất nước mà
phong trào cách mạng đang âm ỉ… Sài G̣n
mà nạn cờ bạc, truỵ lạc, say mê tiền tài
và quyền thế, cuối cùng dẫn đến thoái
hoá về tinh thần và huỷ hoại ư chí…, và
chính quyền Bảo Đại, là nơi mà các Bộ
trưởng… hiện ra dưới con mắt đồng bào
của họ chỉ là những công chức Pháp…”
Báo cáo của Phái đoàn đă
chỉ trích Pháp về sự suy đồi của Việt
Nam:
“Thực là nghiêm trọng v́ sau 8 năm để
buông trôi và vô chính phủ, sự có mặt ở
Đông Dương của một Bộ trưởng tại chỗ vẫn
không có khả năng chấm dứt những vụ bê
bối hàng ngày trong đời sống của xứ
thuộc địa như việc ban cấp các giấy
phép, chuyển tiền, đền bù thiệt hại
chiến tranh, và trao đổi buôn bán. Dù
cho chính quyền của chúng ta không hoàn
toàn chịu trách nhiệm về những tệ đoan
này đi nữa, th́ cũng thật đáng chê trách
là chính quyền đă được khẳng định là đă
không biết tới hoặc đă dung túng những
cái đó”.
Một chủ bút có thế lực người Pháp, b́nh
luận về báo cáo của Phái đoàn đă phê
phán “khuynh hướng tự nhiên của vị thống
đốc quân sự là muốn ḿnh tồn tại măi
măi” và “một số các nhóm chính trị Pháp
đă sống nhờ vào nguồn thu nhập chính của
họ trong chiến tranh… qua các vụ trao
đổi hối đoái, tiếp tế cho quân đội viễn
chinh và việc đền bù chiến tranh”. Ông
kết luận:
“Sự thật là các việc này đă được biết,
càng giúp thêm cho thấy đă có một kế
hoạch rơ ràng được xây dựng từng bước
nhằm loại trừ mọi khả năng thương lượng
ở Đông Dương đế đảm bảo kéo dài không
thời hạn cuộc xung đột và việc chiếm
đóng về quân sự”.
Trong khi mà cả t́nh h́nh quân sự và
chính trị ở Đông Dương chuyển biến một
cách khốn khổ trong nửa cuối năm 1952;
th́ ở Mỹ, cuộc vận động bầu cử Tổng
thống đang tiến triển và chính quyền
Eisenhower sắp nhận chức nên càng làm
cho sự cam kết của chúng ta ở Đông Dương
sâu sắc thêm. Trong một thời gian dài,
phe đối lập đă không ngừng lên án chính
quyền Truman phải chịu trách nhiệm đă để
“mất” Tmng Quốc cho Cộng sản. Phát biểu
của John Foster Dulles trong cuộc vận
động tuyển cử đă không nghi ngờ cho thấy
ông coi Đông Nam Á là một vùng then chốt
trong cuộc xung đột với “đế quốc” Cộng
sản, và điều quan trọng là phải kéo
tuyến ngăn chặn lên phía bắc Bát Gạo của
châu Á - tức là bán đảo Đông Dương.
Tổng thống Eisenhower trong bản Thông
điệp gửi quốc dân đầu tiên của ông (ngày
3-2-1953) đă hứa sẽ có “một chính sách
đối ngoại tích cực và mới” và đă đi tới
gắn liền cuộc xâm lăng của Cộng sản ở
Triều Tiên và Malaysia với Đông Dương.
Dulles, Bộ trưởng Ngoại giao mới, đă
tuyên bố Triều Tiên và Đông Dương là hai
cạnh sườn của kẻ thù chủ yếu là Trung
Cộng ở giữa. Chính quyền của đảng Cộng
hoà đă rơ ư đồ muốn ngăn ngừa không để
mất Đông Dương bằng cách có một thái độ
chống Cộng thẳng thừng hơn.
Cuộc thương lượng kéo dài ở Triều Tiên
đă gây ra sự lo ngại là Trung Cộng có
thể chuyển sự chú ư của họ sang phía
Đông Dương và Tổng thống Eisenhower ngày
16-4-1953 đă cảnh cáo rằng nếu cuộc đ́nh
chiến ở Triều Tiên chỉ đơn thuần giải
phóng cho các đội quân để họ tiến hành
một cuộc tấn công vào một nơi nào khác
th́ đó sẽ chỉ là một sự bịp bợm. Và sau
cuộc đ́nh chiến ở Triều Tiên được kư
kết, Dulles tiếp tục luận điểm nói trên
đă có nhận xét (trong diễn văn ngày
2-9-1953) “một mặt trận duy nhất của
Cộng sản xâm lược kéo dài từ Triều Tiên
đến bắc Đông Dương ở phía Nam”. Ông nói
tiếp:
“Trung Cộng đă và hiện c̣n đang huấn
huyện, trang bị và tiếp tế cho lực lượng
Cộng sản Đông Dương. Ở đây cũng có nguy
cơ, giống như ở Triều Tiên, Trung Quốc
sẽ có thể đưa quân đội của họ vào Đông
Dương. Trung Cộng sẽ thấy rằng một cuộc
xâm lược thứ hai như vậy sẽ không thể
xảy ra mà không mang lại những hậu quả
nghiêm trọng, không phải chỉ hạn chế vào
cho Đông Dương. Tôi nói điều đó một cách
không màu mè… với hy vọng ngăn ngừa sự
tính toán sai lầm mới của kẻ xâm lược”.
Những lời cảnh cáo với Trung Quốc này có
bao hàm một ư muốn phân biệt giữa sự
thành công và thất bại trong việc ngăn
chặn Hồ Chí Minh giành được một thắng
lợi hoàn toàn dựa trên khả năng Trung
Quốc tăng cường sự viện trợ hoặc trực
tiếp can thiệp. Cảnh cáo Trung Quốc chắc
chắn c̣n là nhằm mục đích răn đe thêm
đối với sự can thiệp của người Trung
Quốc và ngầm mang theo một sự đe doạ là
nếu Trung Quốc nhảy vào cuộc chiến tranh
Đông Dương th́ Mỹ bắt buộc phải có hành
động tiếp theo thích đáng, tốt nhất là
cùng với các nước đồng minh, nhưng cũng
có thể chỉ một ḿnh nếu cần. Ngoài ra,
chính quyền Eisenhower c̣n có ư cho
rằng, áp dụng chính sách đánh trả hàng
loạt, Mỹ sẽ đánh một đ̣n nguyên tử trừng
phạt đối với Trung Quốc mà không nhất
thiết phải đưa lục quân của chúng ta
tham gia vào một cuộc chiến tranh ở châu
Á.
*
Giáp, trong thời gian bầu cử chính quyền
mới của chúng ta, đă t́m ra được gót
chân Achille(9) của Pháp: thiếu cơ động
và hậu cần nặng nề cồng kềnh; và ông đă
cho thực hiện cách đánh “vận động chiến”
của ông để chuẩn bị chiến tranh với
những cuộc hành quân quy mô lớn, một
bước để đi tới “trận địa chiến” và giành
thắng lợi. Mục tiêu đầu tiên ông chọn là
đánh chiếm cao nguyên Thái và chiếm đóng
Lào. Ngày 11-10-1952, Giáp cho 3 đại
đoàn vượt sông Hồng trên một tuyến 40
dặm, lướt quét các tiền đồn Pháp trên
đường tiến về sông Đà. Ngày 30-11, các
đơn vị đi đầu của Việt Minh đă tới biên
giới Lào. Trong quyển “Hai Việt Nam”,
Bernard Fall đă viết về t́nh h́nh đó như
sau: “các sư đoàn Cộng sản, ngay trước
mắt người Pháp đang làm chủ trên không,
đă vượt qua 180 dặm trong 6 tuần chiến
đấu mà chẳng phải dùng đến một con đường
bay, một xe cơ giới nào”. Đến ngày 1-12,
người Pháp đă rút lui tương đối an toàn
về sau pḥng tuyến De Lattre ở phía bắc
Hà Nội, nhưng cũng không phải không
thiệt hại nặng về người và trang bị.
Trong đầu xuân 1953, Giáp đưa cuộc “vận
động chiến” của ông từ đất Thái sang
Lào. Rồi Giáp tiến về phía nam cho đến
khi Pháp quyết định né tránh bằng cách
chuyển sang phía đông về Cánh đồng Chum,
nhưng Giáp vẫn đuổi theo và bao vây họ ở
đó. Đến ngày 7-5, quân đội của Giáp rút
về Việt Bắc, để lại phía sau một lực
lượng nhỏ để cầm giữ người Pháp, đồng
thời tăng cườg nhiều cố vấn chính trị
cho Pathet Lào dưới quyền của Hoàng thân
Souphanouvong.
Tháng 5-1953 cũng là tháng đă nổ ra cuộc
khủng hoảng mới trong nội các Pháp và J.
Laniel, một đảng viên Độc lập được đưa
vào ghế thủ tướng. Laniel thay
Letourneau bằng M. Dejean và cử làm Công
sứ Tổng uỷ viên, một chức vụ có nhiều
quyền hạn khác trước. Việc chấn chỉnh bộ
máy Cao uỷ cũ cũng giúp loại trừ được
một số lộng hành này nhưng lại đẻ ra một
số mới khác. Các chức năng dân sự của
Cao uỷ cũ được chia ra cho Công sứ Tổng
uỷ viên và ba Cao uỷ Pháp ở Việt Nam,
Lào và Cambodia. Các quyền hành quân sự
trước đây nằm trong tay Cao uỷ Pháp nay
được chuyển cho Công sứ Tổng uỷ viên là
sĩ quan duy nhất chịu trách nhiệm về
pḥng thủ và an ninh ở Đông Dương. Như
thế là Công sứ Tổng uỷ viên đă nắm được
toàn bộ quyền phân phối viện trợ cho các
quốc gia Liên hiệp. Cách tổ chức mới này
đă làm cho người thủ trưởng dân sự trở
thành một người trọng tài thực sự về các
vấn đề quân sự. Đó cũng là một điều nổi
bật c̣n giữ lại từ thời của các viên
Toàn quyền; quân đội chỉ có một nhiệm vụ
nhỏ là duy tŕ trật tự.
Tướng Henri-Eugène Navarre là người chỉ
huy đầu tiên và cũng là người cuối cùng
đă cảm thấy sự kiểm soát mới của bên dân
sự ràng buộc đối với các hoạt động quân
sự. Ông ta đă đưa ra một kế hoạch nhằm
đánh bại Việt Minh một cách quyết định
vào năm 1955 và đă được Mỹ, đặc biệt là
tướng O’Daniel và Bộ trưởng ngại giao
Dulles ủng hộ.
Kế hoạch Navarre đó, c̣n được gọi là
“Quan niệm của Navarre về các cuộc hành
quân ở Đông Dương” đă đưa ra một công
thức giành thắng trận có thể thành công
mà không phải đưa quân Mỹ vào tham gia
trực tiếp và chỉ cần dựa vào một sự viện
trợ đại quy mô của Mỹ về quân sự.
Từ tháng 5-1953, Mỹ đă tuôn hàng tiếp tế
vào Lào và Thái Lan và cung cấp cho Lào
6 máy bay C-119 cùng với các tổ lái dân
sự. Quốc hội đă đồng ư cho cấp 400 triệu
dollar viện trợ cho Pháp trong tài khoá
1954, nhưng sau khi Pháp đưa ra kế hoạch
Navarre, Quốc hội đă chuẩn cho thêm một
khoản phụ 385 triệu. Tuy đă có đủ viện
trợ, nhưng tướng Navarre vẫn thấy ḿnh
bị hạn chế trong việc mở rộng các cuộc
hành quân chống lại Việt Nam v́ quyền
quyết định cung cấp các nguồn tài nguyên
nói trên của Công sứ Tổng uỷ viên. V́
tất nhiên là Dejean phải theo chính sách
Pháp - không được tung ra thêm nhiều lực
lượng hơn nữa mà phải chuẩn bị cho cuộc
điều đ́nh - và Navarre đă bị chỉ trích
là kế hoạch của ông có thể thất bại.
Những thắng lợi của Việt Minh trong thời
kỳ này đă cho thấy rơ thêm t́nh trạng
nguy ngập của Pháp; các chiến dịch mới
nhất của Giáp chứng tỏ lực lượng Việt
Minh đang lên, một phần do tác động của
việc Nga và Trung Quốc tăng cường viện
trợ quân sự. Lực lượng chiến đấu Pháp đă
tụt xuống thấp một cách nguy hiểm, và
không hy vọng có sự bổ sung nhanh từ
Pháp. Đó là một bức tranh ảm đạm. Trong
một số giới chính trị ở Paris lại xôn
xao về “một giải pháp danh dự”, trước sự
bực bội của các quan chức Washington.
Bộ Tổng chỉ huy Pháp và cánh hữu thực
dân quan niệm “giải pháp danh dự” phải
là một chiến thắng quân sự, và về điểm
này họ được sự ủng hộ của chính phủ Mỹ,
mặc dù với những động cơ khác nhau. Để
tạo được một t́nh h́nh quân sự cho phép
đạt được “giải pháp danh dự” th́ nhất
thiết cần phải xây dựng một lực lượng
chiến đấu mạnh hơn Việt Minh, và nhất
định phải cơ động hơn. Đó cũng là bài
học tướng Salan đă tiếp thu được trong
một năm đối đầu với Giáp. Và việc t́m
kiếm “một giải pháp danh dự” vẫn cứ được
tiếp tục.
Ở Washington, thượng nghị sĩ J.F.
Kennedy đă thấy giải pháp Bảo Đại không
đi tới đâu và Pháp th́ ngoan cố đối với
việc trao trả độc lập cho Việt Nam, đă
viết:
“Độc lập chân chính… chưa có được ở Đông
Dương, chức năng cua chính phủ bản xứ bị
bó hẹp…; Chính phủ nước Việt Nam, một
quốc gia quan trọng bậc nhất trong vùng,
thiếu sự ủng hộ của quần chúng…, chúng
ta sẽ nhấn mạnh tới vấn đề độc lập chân
chính… Tôi tin tưởng mạnh mă rằng người
Pháp không thể thành công ở Đông Dương
nếu không có những nhân nhượng cần thiết
để làm cho quân đội bản xứ trớ thành một
quân đội đáng tin cậy và đánh lớn được”.
Sau đó Kennedy phê phán người Pháp:
“Năm nào chúng ta cũng nhận được 3 điều
bảo đảm. Thứ nhất là nền độc lập của các
quốc gia Liên hiệp hiện nay đă được thực
hiện; thứ hai, nền độc lập đó sẽ sớm
được hoàn thiện trên cơ sở những bước
“nay” đă đạt được; và ba, quân đội Liên
hiệp Pháp đảm bảo sẽ giành được chiến
thắng quân sự, hoặc đúng là cơ bản giành
được chiến thắng đó”.
Suốt trong thời kỳ chúng ta giúp đỡ cho
người Pháp, các nhà lănh đạo Mỹ vẫn có ư
kiến thấy cần thiết phải khuyến khích
Pháp trao trả cho người Việt quyền tự
trị rộng răi hơn. Áp lực của Mỹ đă thể
hiện rơ trong bản tuyên bố công khai của
thủ tướng Laniel (ngày 3-7-1953) nói
rằng chủ quyền của các quốc gia Liên
hiệp sẽ “được hoàn thiện” qua việc
chuyển giao cho các nước này các chức
năng hiện vẫn c̣n nằm trong tay người
Pháp, nhưng lại không đưa ra được thời
hạn cuối cùng cho việc hoàn thành độc
lập. F. Mitterand(10) (thuộc cánh tả
trung tâm) đă b́nh luận như sau:
“Từ năm 1949 đến nay, chúng ta đă 18 lần
trao trả “độc lập hoàn toàn” cho Việt
Nam. Nhưng đă có lần nào chúng ta làm
thực đúng được điều đó đâu?”(11)
Trong câu chuyện riêng, Bảo Đại cũng
nêu:
“Hoàn thiện” là cái ǵ? Đối với người
Pháp, bao giờ cũmg chỉ có vấn đề họ phải
trả chúng tôi độc lập. Tại sao họ lại
không thể trao trả một lúc và tất
cả?”(12)
Ngày 6-8, chính quyền mới của Eisenhower
đă đưa ra những điều kiện đặc biệt để
đảm bảo có viện trợ tiếp tục của Mỹ cho
Pháp; một trong các điều kiện đó là Pháp
công khai cam kết có “một kế hoạch nhằm
gây được sự ủng hộ và hợp tác của người
bản xứ Đông Dương”. Điều gay go đối với
Pháp là khoản 385 triệu dollar chúng ta
đă hứa để giúp thực hiện kế hoạch
Navarre và Eisenhower cũng nắm chắc vấn
đề này. Ông đă chỉ thị cho Đại sứ
Douglas Dillon của chúng ta ở Paris báo
cho Thủ tướng Laniel và Bộ trưởng Ngoại
giao Bidault là chúng ta mong rằng Pháp
“tiếp tục theo đuổi một chính sách nhằm
hoàn thiện nền độc lập các quốc gia Liên
hiệp theo đúng như bản tuyên bố ngày
3-7”.
Mỹ lo ngại nếu không có một sự ràng buộc
nào của chính phủ Pháp với một nước Việt
Nam không Cộng sản th́ áp lực chính trị
trong nội bộ nước Pháp có thể đẩy chính
phủ họ t́m kiếm một giải pháp thương
lượng thay v́ cho giải pháp quân sự.
Người ta cho rằng (trước trận Điện Biên
Phủ) nếu kế hoạch Navarre thất bại hoặc
tỏ ra phá sản, người Pháp có thể điều
đ́nh ngay với những điều kiện tốt nhất
có thể được, mà không cần tính toán xem
những điều kiện đó có đảm bảo ngăn ngừa
được cho một Đông Dương không Cộng sản
hay không. Đó là một điều các nhà chiến
lược và làm chính sách của chúng ta
không thể tưởng tượng nổi. Mong muốn của
họ là nước Pháp chống dỡ được và phá tan
dược mọi mưu đồ của Việt Minh muốn chiếm
chính quyền bằng bất cứ cách nào. Theo
chiều hướng đó, chính quyền Eisenhower
đă sớm cho triển khai chính sách của
chúng ta nhằm tác động đến người Pháp
chống lại việc kết thúc cuộc chiến tranh
trong những điều kiện “không thoả đáng”
đối với các mục tiêu cơ bản của chúng
ta. Theo đường lối Hội đồng An ninh Quốc
gia vạch ra ngày 16-1-1954, Tổng thống
đă chỉ thị cho các nhà ngoại giao chúng
ta báo cho Pháp biết:
“1- Trong khi t́nh h́nh quân sự chưa có
một sự cải tiến rơ rệt, th́ không có cơ
sở cho một cuộc thương lượng với những
điều kiện có thể chấp nhận được.
2- Chúng tôi (Mỹ) dứt khoát phản đối mọi
ư kiến về một cuộc ngừng bắn, coi đó là
một bước đầu để đưa tới thương lượng; v́
một cuộc ngừng bắn (như thế) sẽ dẫn đến
một sự suy sụp không thể nào cứu văn
được về vị trí quân sự (của Pháp - Việt
ở Đông Dương); một chính quyền được gọi
là Liên hiệp không Cộng sản sẽ có thể
trao đất nước vào tay Hồ Chí Minh trong
t́nh h́nh không thuận lợi cho việc thay
thế Pháp bởi Mỹ hoặc Anh.
Chỉ lệnh nói trên cho
thấy một cách chắc chắn là các nhà hoạch
định chính sách của chúng ta đă sẵn sàng
ngả theo việc Mỹ tiếp quản Đông Dương
nếu người Pháp bị sa lầy ở đó.
Thập kỷ đầu cuộc chiến tranh lạnh đă dần
từng tí một đẩy chúng ta vào vũng lầy
Đông Nam Á. Quan niệm cứng nhắc chẳng
hay ho ǵ của chúng ta về một khối Cộng
sản xâm lược thuần nhất cũng như nhận
thức theo cảm tính của chúng ta về việc
“mất” Trung Quốc đều là những con đường
dẫn chúng ta tới chỗ bị trơn tuột.
Thuyết “domino” lại đẩy chúng ta lao vào
con đường đó nhanh hơn một chút nữa. Rồi
việc thiếu hiểu biết một cách sâu sắc về
các đặc tính riêng của các nước Đông Nam
Á và sự khác biệt giữa các xă hội các
nước này đă che mắt không cho chúng ta
thấy được những nỗi hiểm nghèo dọc trên
đường chúng ta đi. Sau hết, mọi người
đều cho rằng chúng ta đă được giao cho
giữ một địa vị lănh đạo trong những vùng
xa xăm hẻo lánh này. Rất ít người có thể
nhận thức được sự dính líu dă càng ngày
càng sâu thêm.
Nhưng vào đầu năm 1954, với trận Điện
Biên Phủ và các cuộc hội nghị quốc tế ở
Genève đă hiện ra ở chân trời, th́ chúng
ta đă bị ngập quá sâu trong vũng lầy và
trong một cuộc xung đột vừa với các mục
tiêu của Pháp, vừa với của Việt Nam. Đó
cũng là một năm của những quyết định đầy
hiểm nghèo, và chim hải âu đă bay lượn
quanh trên con tàu quốc gia chúng ta.
***
Cuối mùa xuân 1953, bộ đội của Giáp đă
hành quân ṿng qua đồng bằng sông Hồng,
Bắc Bộ, sang phía Tây vào cao nguyên
Thái, vượt biên giới Lào rồi chuyển về
hướng Nam đến đóng trong vùng rộng lớn
từ Cánh đồng Chum, Trung Bộ; ở đó họ đă
đánh phá tiêu hao quân của Salan một
cách thắng lợi. Trong cuộc hành quân,
Giáp đă tránh các cứ điểm pḥng ngự
mạnh, tràn qua hoặc chiếm các tiền đồn
ít quan trọng của Pháp. Một trong số đó
là vị trí sân bay nhỏ Điện Biên Phủ gần
biên giới Lào, bị Pháp chiếm từ ngày
30-11-1952.
Để ngăn chặn áp lực ngày càng tăng của
Việt Nam và mở ra một cục diện quân sự
thuận lợi cho Paris giành “giải pháp
danh dự”, Salan cho rằng ông ta cần phải
có thêm binh lực. Kế hoạch của ông nhằm
tăng cường sức chiến đấu của quân đội
bằng cách rút họ ra khỏi các chốt pḥng
ngự cố định để làm cho họ cơ động thêm
lên. Ông ta biết rằng không có hy vọng
chờ đợi sự giúp đỡ của chính quốc Pháp,
nhưng các quốc gia Liên hiệp có thể cung
cấp cho ông ta số binh lực cần thiết để
thay vào số quân rút khỏi các đồn trại
pḥng ngự cố định nếu như Paris chấp
nhận lời đề nghị của ông. Tất nhiên, ông
cũng cần được tăng cường một số lượng
lớn về vũ khí và trang bị, nhưng có thể
do Mỹ sẽ đảm nhiệm cung cấp.
Chính phủ Pháp chấp nhận kế hoạch của
Salan và đề nghị với Mỹ tăng thêm viện
trợ. Yêu cầu của Pháp thật đúng lúc.
Việc Giáp tiến quân vào Lào trong tháng
4, đi đôi với việc suy giảm trong nỗ lực
chiến tranh của Pháp được tuyên truyền
khá rộng răi, đă gây nhiều lo ngại cho
chính quyền Washington, làm họ sợ một sự
sụp đổ hoàn toàn của Pháp, nên đă cho
tuôn mạnh đồ viện trợ tiếp tế vào Lào và
Thái Lan từ tháng 5-1953. Nhưng viện trợ
chỉ được cung cấp với điều kiện kế hoạch
mới của Salan phải mang lại được những
thắng lợi về quân sự; và vũ khí trang bị
phải chủ yếu được dùng cho quân đội do
các quốc gia Liên hiệp tuyển mộ.
Viện trợ mới và kế hoạch sửa đổi đặt ra
cho chính phủ Pháp vấn đề phải có một ê
kíp lănh đạo quân sự mới, và đến lúc đó
th́ Salan được thay thế bởi nhà chiến
lược cừ khôi, tướng Henri Eugène
Navarre, nắm quyền chỉ huy từ 20-5-1953.
Như đă nói ở trên, Hội đồng Quốc pḥng
Pháp đă chỉ thị cho Navarre phải hạ thấp
yêu cầu pḥng thủ Lào và trước hết “phải
đảm bảo an toàn cho đội quân viễn chinh
Pháp”. Nhưng sau khi nhậm chức, Navarre
đi kiểm tra t́nh h́nh tại chỗ và đă định
ra một chiến lược riêng của ông ta. Ông
chấp nhận một phần các khái niệm của De
Lattre và Salan để sử dụng và đưa ra một
kế hoạch cừ khôi nhưng tai hại, mang tên
ông. Nó đă được Washington đề cao nhưng
lại bị Paris kết tội. Kế hoạch đ̣i hỏi
phải có một lực lượng tấn công cơ động
mạnh dể giành lại thế chủ động vào mùa
thu năm 1954. Trong thời gian quá độ,
Navarre cho thực hiện một chiến lược
pḥng ngự (như Paris đă chỉ thị) ở bắc
vĩ tuyến 18, nhưng sẽ tích cực tiêu diệt
đối phương ở miền trung Trung Bộ và Nam
Bộ (trái với các chỉ thị của Paris)
trong nửa đầu năm 1954. Rồi đến mùa thu
1954, ông sẽ tung ra cuộc tổng tiến công
(như đă thoả thuận với O’Daniel và
Dulles) ở bắc vĩ tuyến 19 với mục đích
tạo ra một điều kiện thuận lợi mong muốn
cho một sự dàn xếp về chính trị của cuộc
chiến tranh.
Trong khi đó th́ cuộc đ́nh chiến ở Triều
Tiên rốt cục đă được kư kết ngày 26-7.
Sau những buổi hội đàm dài nhất trong
lịch sử - 2 năm và 17 ngày, bao gồm 575
cuộc gặp gỡ riêng. Một cuộc hội nghị đă
được xúc tiến 90 ngày sau khi hoàn thành
việc trao đổi tù binh, để thảo luận
“tương lai của Triều Tiên và các vấn đề
có liên quan”. Việc trao đổi tù binh kết
thúc ngày 6-9. Cuộc đ́nh chiến đă được
Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và
số lớn các nước “khối” châu Âu hoan
nghênh, nhưng không được Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà chào mừng như là một báo
hiệu của hoà b́nh thế giới.
Hồ Chí Minh trong một bức điện gửi cho
Mao Trạch Đông (ngày 4-8) chỉ bày tỏ một
sự phấn khởi to lớn của nhân dân Việt
Nam về việc cuộc chiến tranh Triều Tiên
đă kết thúc. Phải chăng người Việt Nam
đă phấn khởi v́ họ thấy trước là Trung
Quốc sẽ chú ư nhiều hơn đến những nhu
cầu của Việt Minh? Hay là họ phấn khởi
v́ cuộc thương lượng hoà b́nh ở Triều
Tiên đă đặt ra khuôn mẫu của một giải
pháp chính trị cho cuộc chiến tranh ở
Đông Dương?
Có thể có cả hai vấn đề. Chắc chắn rằng
Trung Quốc có xu hướng thiên về chiến
tranh, chỉ cần cố gắng ít nhiều để phân
tán bộ máy quân sự của họ không c̣n cần
thiết ở Triều Tiên nữa để đáp ứng nhu
cầu của ông Hồ, cũng đủ làm cho ông đối
phó được với Pháp - thậm chí cả với Mỹ -
từ một thế mạnh. Các nhà hoạch định
chính sách ở Washington và Paris nh́n
một cách lo lắng và chờ đợi hành dộng
sắp tới của Bắc Kinh, và Dulles đă báo
cho Trung Quốc biết qua bài phát biểu ở
Saint Louis (2-9-1953), về “những hậu
quả nghiêm trọng của một cuộc xâm lược
sai lầm khác”. Trong cuộc họp báo ngày
hôm sau, người ta đă hỏi Dulles xem có
phải bài diễn văn của ông có bao hàm ư
Mỹ muốn đưa vấn đề khôi phục hoà b́nh ở
Đông Dương ra bàn ở Hội nghị chính trị
của Triều Tiên đă được dự kiến không.
Dulles đă đáp lại:
“Chúng tôi đă nói là cuộc hội nghị như
dự kiến đă định lúc ban đầu… sẽ chỉ hạn
chế vào vấn đề Triều Tiên. Nhưng… (nếu)
Trunng Cộng tỏ ra có ư muốn giải quyết
một cách hợp lư vấn đề Đông Dương, th́
về phương diện kỹ thuật, chúng tôi không
thể trả lời “Không”, chúng tôi cũng
không muốn nói đến vấn đề đó”.
Mùa thu, được tướng O'Daniel và Bộ
trưởng Dulles khuyến khích, Navarre cho
thực hiện kế hoạch của ông ta. Trong
thời gian ngắn, ban đầu h́nh như mọi
việc đều tốt, nhưng chỉ đến cuối năm,
mặt trận trở thành tai hoạ. Rơ ràng là
người Pháp cũng như người Mỹ đă không
thể không công nhận là quân Pháp dă đánh
vào những khoảng trống ở Đông Dương. Chỉ
mới tiếp xúc là quân đối phương đă tan
biến vào trong rừng để rồi lại xuất hiện
ở nơi khác.
Buộc phải rút lui khỏi miền Nam xứ Thái
cuối tháng 9, Navarre liền quay trở về
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Với một lực lượng
20 tiểu đoàn, ông ta định tiêu diệt một
trung đoàn quân chính quy Việt Minh
trong tỉnh Thái B́nh (khoảng 40 dặm đông
nam Hà Nội). Như đă đoán trước, lực
lượng của Giáp lại biến đi; song cuối
tháng 10, Pháp hănh diện báo cho tướng
O’Daniel về một “chiến thắng mới” làm
ông này xúc động báo cáo ngay về Tham
mưu trưởng Liên quân ở Washington. Với
hy vọng kéo Giáp vào bẫy, Navarre cho 3
tiểu đoàn dù chiếm lại Điện Biên Phủ
ngày 20-11. Giáp đă không cắn mồi; trái
lại ông đă để cho Pháp tăng cường pḥng
thủ đồn ngoại vi đó và xúc tiến chuẩn bị
bao vây cứ điểm của Navarre.
***
Những lời phát biểu của Dulles với báo
chí ngày 3-9 về khả năng thương lượng
với Trung Cộng chung quanh vấn đề Đông
Dương, đă gợi cho Laniel con đường phải
giải quyết vấn đề với Hồ Chí Minh. Ngày
19-9, Chủ tịch Hồi đồng Bộ trưởng Liên
Xô Georgi Malenkov, một người chủ trương
mạnh mẽ hoà dịu, nhấn mạnh vào đ̣i hỏi
của “nhân dân yêu chuộng hoà b́nh thế
giới” phải làm cho cuộc đ́nh chiến Triều
Tiên thành một khởi điểm để “làm giảm
nhẹ căng thẳng quốc tế ở khắp mọi nơi,
bao gồm cả Viễn Đông”. Ngày 21, Andrei
Vishinsky, đại diện Liên Xô tại Liên hợp
quốc, đề nghị tiếp “một cuộc giảm binh
bị và tuyên truyền nhằm đẩy lùi nguy cơ
một cuộc chiến tranh mới”. Chu Ân Lai
liền ủng hộ đề nghị của Liên Xô (ngày
8-10) và nêu lên vấn đề ghế của Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc;
ông nhắc lại lập luận của Malenkov về
việc làm giảm t́nh h́nh căng thẳng quốc
tế nhằm củng cố hoà b́nh ở Viễn Đông.
Những người Cộng sản trong quốc hội Pháp
nắm lấy đường lối của Mátxcơva, Bắc
Kinh, liền tiếng yêu cầu thương lượng
hoà b́nh với Hồ Chí Minh, giống như Mỹ
đă làm với Kim Nhật Thành ở Triều Tiên.
Sau thất bại tháng 9 của Navarre, tâm
trạng ở Pháp trở nên u ám. Dân chúng
ngoài đường và một số các nhà làm chính
trị trong quốc hội đă cho rằng Pháp đưa
binh lính ra trận để phục vụ cho cuộc
Thập tự chinh chống Cộng của Mỹ. Họ đă
đi đến một nhận thức ác nghiệt về cuộc
chiến tranh Đông Dương, nói đó chỉ là
một cái địa ngục không có ǵ khác hơn là
để Pháp chôn vùi thuộc địa, và đối với
Pháp đấy là một cuộc chiến tranh không
thắng.
Đáp lại những yêu cầu đó, ngày 27-10,
Laniel công bố ư định của ông muốn
thương lượng. Nhưng với ai? Không với Hồ
Chí Minh mà cũng không phải v́ “Bộ tham
mưu” của ông ta tỏ ra muốn có một cuộc
đối thoại nào đó. Ngày 12-11, trước quốc
hội, Laniel nhắc lại quan điểm của ông
ta, tuyên bố chính phủ ông không cứ nhất
định giành đạt cho được một “giải pháp
quân sự”, mà sẽ thu xếp để có một “giải
pháp ngoại giao”; mang theo ngụ ư “giải
pháp quân sự” là của Mỹ, c̣n Pháp không
phải thế. Cuộc tranh căi tại quốc hội
Pháp đă chia đất nước ra thành hai phái:
phái muốn thương lượng và phái muốn kéo
dài công cuộc béo bở này của họ. Phái
sau này, thường là thuộc giới tư bản
kinh tế tài chính, chịu ảnh hưởng của
phong trào Cộng hoà B́nh dân, kiêu hănh
bám lấy “danh dự” của nước Pháp và cho
rằng không thể chấp nhận việc quan hệ
với Hồ Chí Minh Cộng sản - ít ra th́
cũng cho đến khi ưu thế quân sụ của Pháp
đặt người Pháp trong một thế lợi để ra
các điều kiện.
Trong khi ưu thế quân sự trên chiến
trường chưa thấy đâu và ở Pháp tranh căi
nhau, th́ Navarre, vào giữa tháng 11,
vẫn lên tiếng biện minh cho những thất
bại của ông ta bằng những lời ca cẩm cũ
- v́ không có đủ quân. Yêu cầu tăng viện
của ông ta bị Uỷ ban Quốc pḥng dứt
khoát gạt bỏ; ông ta phải bằng ḷng với
những cái đă có. Cũng trong thời gian
đó, Laniel lo xúc tiến các cuộc điều
đ́nh hoà giải, nên đă đưa một phái đoàn
bí mật do Phó đô dốc Cabanier cầm đầu
đến Sài G̣n để hỏi ư kiến Navarre xem đă
đến lúc thuận lợi để mở các cuộc diều
đ́nh ngừng bắn chưa. Navarre phát biểu
(ngày 20-11) là hăy c̣n sớm quá, và t́nh
h́nh quân sự Pháp sẽ thuận lợi hơn vào
mùa hè tới (1954).
Trong thời gian Navarre chiếm Điện Biên
Phú, tờ nhật báo Thuỵ Điển Expressen, đă
cho đăng (ngày 29-11) những câu trả lời
của Hồ Chí Minh cho một loạt các câu hỏi
do Sven Lôfgren, phóng viên của báo ở
Paris đặt ra. Trả lời của ông Hồ đề ngày
26-11 và cho biết ư định của Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà muốn điều đ́nh một cuộc
ngừng bắn với điều kiện chính phủ Pháp
công nhận và tôn trọng nền độc lập hoàn
toàn của Việt Nam vào năm 1955.
Chính phủ Pháp đă phản ứng một cách tiêu
cực. Laniel quan tâm theo dơi “ư định
muốn thương lượng” của ông Hồ, nhưng đa
số ngoan cố phản động trong chính phủ
quyết định coi như không biết đến lời đề
nghị đó. Lập trường của chính phủ Pháp
là ông Hồ phải đưa ra đề nghị bằng những
đường chính thức, chứ không phải qua các
“lời rao mật trên báo chí”. Ngày 12-12,
thông tấn xă của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà lại nhắc lại lời đề nghị thương
lượng của ông Hồ trên cơ sở như đă nêu.
Rồi, lần nữa, ngày 19, ngày kỷ niệm 7
năm cuộc chiến tranh, trong thông điệp
gửi Quân dội Nhân dân Việt Nam, ông Hồ
cho phát thanh lời tuyên bố cho thả hàng
trăm tù binh Pháp và thêm một lần nữa đề
nghị thương lượng.
Tuy những cuộc thăm ḍ hoà b́nh này
chẳng trực tiếp mang lại được điều ǵ
nhưng gián tiếp đă làm tăng thêm t́nh
cảm chính trị công chúng ngày càng mạnh
ở Pháp đ̣i chấm dứt cuộc chiến tranh
dường như vô tận và rất tốn kém. Trong
khi đó, các báo cáo lạc quan của Navarre
vẫn đưa ra hy vọng là chiến thắng đang ở
trong tầm tay. Laniel và các quan chức
Pháp khác đă nói với Đại sứ quán chúng
ta là họ coi đề nghị của ông Hồ chỉ là
tuyên tuyền, nhưng cũng phải thừa nhận
là nó đă tác động sâu sắc đến công chúng
và các giới quân sự ở Pháp và ở Đông
Dương. Laniel c̣n cho biết tổng thống
Auriol đă bị kích động đến mức ông đă
nói với Laniel phải hỏi ư kiến các đại
diện ba quốc gia Liên hiệp ngay tức khắc
để nắm lấy khả năng sớm nhất nhằm mở các
cuộc điều đ́nh với đại diện của Hồ Chí
Minh. Nhưng Laniel đă dứt khoát từ chối.
Các quan chức Mỹ th́ hoài nghi; báo cáo
của Đại sứ quán cho thấy trong diễn văn
ngày 24-11 của Laniel c̣n có khoảng rộng
răi dành cho cuộc điều đ́nh, và các đề
nghị của ông Hồ đă tăng thêm áp lực cho
việc hoà giải.
Chính sách kiên định của Mỹ là lái cho
Pháp tránh xa khỏi bàn hội nghị trong
khi chưa giành dược những thắng lợi quân
sự quan trọng trên chiến trường. Dulles
đă nhiều dịp nói với Bidault rằng Mỹ
thấy kết thúc cuộc chiến tranh Đông
Dương trong điều kiện thuận lợi cho Cộng
sản là một điều không nên. Ông muốn
người Pháp tiếp tục cuộc chiến v́ ông
tin tưởng một cách sâu sắc rằng Đông
Dương là một mắt xích chủ yếu trong
pḥng tuyến ngăn chặn Cộng sản, nhưng
cũng v́ chúng ta đă bị các báo cáo của
Pháp về sự tiến bộ của chiến tranh làm
mờ mắt. Từ Sài G̣n, O’Daniel đă báo về
là chiến thắng của Pháp có thể chắc chắn
nếu được chúng ta giúp đỡ về vật chất,
và chính quyền Washington đă vui vẻ đổ
vào đó càng nhiều đồ viện trợ.
Trong cuộc hội nghị tại
Bermuda (tháng 12-1953), Tổng thống
Eisenhower, thủ tướng Laniel đă bị t́nh
h́nh mặt trận Đông Dương làm cho bối
rối. Các vị đă kín đáo biểu thị mối lo
lắng của họ trong bản thông cáo ngày
7-12, nói rằng họ đă xem xét t́nh h́nh
Viễn Đông và có kế hoạch triệu tập một
cuộc hội nghị chính trị để đi tới được
“một cuộc hoà giải về vấn đề Triều Tiên”
và khôi phục lại “các điều kiện b́nh
thường hơn ở Viễn Đông và Đông Nam Á”.
Trong khi Pháp c̣n đang bận rộn t́m một
cách điều đ́nh có thể chấp nhận được và
Navarre cố gắng làm chuyển biến t́nh thế
quân sự của ông ta, th́ Giáp đă sẵn sàng
thận trọng cho bật cái bẫy ở Điện Biên
Phủ. Ngày 22-12, ông mở cuộc tấn công 5
ngày, cắt đứt Đông Dương ở chỗ hẹp nhất
và xuyên qua cả Việt Nam và Lào. Cuộc
tiến công chấm dứt khi Giáp tới sông
Mékong trên biên giới Thái Lan.
Kế hoạch Navarre rơ ràng là không thực
hiện được. Các quan chức cao cấp ở
Washington do Phó Tổng thống Nixon cầm
đầu, “nhóm ủng hộ Trung Quốc” ở Quốc
hội, và toàn thể cánh cực hữu bảo thủ
đảng Cộng hoà đă lên tiếng cảnh cáo quốc
dân về mối đe doạ của Trung Cộng ở Đông
Dương. Trong bài phát biểu trên đài phát
thanh và truyền h́nh ngày 23-12, Nixon
đă thẳng tay gạt bỏ nguyên nhân thực sự
của cuộc chiến Đông Dương và nhận xét
“Nếu Trung Quốc không phải là Cộng sản,
th́ có thể đă không có cuộc chiến Đông
Dương…”. Song ư kiến của Nixon cũng có
thể là một phản ảnh xác đáng trong dư
luận công chúng lúc đó cũng như sau này.
Quan điểm của họ vẫn là nếu như thủ tiêu
được nhân tố Cộng sản th́ mọi cái ở Việt
Nam sẽ tốt đẹp. Giới quan chức của Mỹ đă
được thông báo kém đến mức càng làm cho
sự rối rắm kéo dài thêm.
Bộ trưởng Dulles, trong cuộc họp báo 6
ngày sau, nói đến sự thất bại ở Đông
Dương. Ông đă cho biết là ư nghĩa quân
sự trong hoạt động của Cộng sản đă được
“thổi phồng lên một cách quá đáng”, và
“chẳng có lư do ǵ… để mọi người phải
hoảng sợ”. Ông nói thêm, ông “chẳng khi
nào nghĩ rằng có nhiều sự chân thật”
trong các hoạt động thăm ḍ hoà b́nh của
Hồ Chí Minh. Và Dulles đă cảnh cáo là
một sự can thiệp của Trung Cộng vào Đông
Dương có thể gây ra một phản ứng của Mỹ
“không nhất thiết hạn chế vào khu vực
đặc biệt mà Cộng sản đă chọn làm chiến
trường xâm lược mới của họ”.
Vào mùa thu 1953, giữa Mỹ, Anh, Pháp và
Liên Xô có nhiều vấn đề nghiêm trọng
phải giải quyết, trong đó Đông Dương chỉ
là một, v́ c̣n có vấn đề tương lai của
nước Đức và Áo. Mỹ lo đối phó với sự
bành trướng của Cộng sản, đă sáng chế ra
kế hoạch Cộng đồng Pḥng thủ châu Âu
(EDC) mà nội dung chủ yếu chỉ là nhằm
tái vũ trang nước Đức. Pháp kịch liệt
chống lại một nước Đức mới được phục hồi
về kinh tế và quân sự, nhưng Pháp lại
cần tới những lợi ích thu lượm được từ
EDC do Mỹ đỡ đầu, để xây dựng địa vị của
ḿnh ở châu Âu. V́ những lư do nhất
định, Liên Xô cũng chống lại EDC và ủng
hộ những sự dè dặt của Pháp trong việc
tham gia Cộng đồng. Mỹ mong muốn giải
quyết được vấn đề, đă đưa ra đề nghị họp
hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao nhưng
Liên Xô thoái thác. Phản đề nghị của
Liên Xô nêu ra yêu cầu trước hết Phương
Tây phải từ bỏ EDC và tiến hành triệu
tập một cuộc hội nghị 5 nước lớn, tức là
có bao gồm cả Trung Cộng. Cuối cùng,
những người Xô viết cũng thoả thuận một
cuộc hội nghị chỉ có 4 nước lớn ở Berlin
vào tháng 1-1954.
Hội nghị khai mạc ngày 25-1 trong khu
vực Mỹ ở Berlin. Dẫn đầu các đoàn đại
biểu là Dulles (Mỹ), Eden (Anh), V.
Molotov (Liên Xô), và Bidault (Pháp).
Vấn đề đầu tiên trong chương tŕnh nhằm
giải quyết việc thống nhất nước Đức và
các đồng minh nhưng rồi các vấn đề khác
xen vào. Thậm chí, trước khi hội nghị
họp, Malotov đă đề nghị với Bidault là
người Nga sẵn sàng giúp đỡ thu xếp một
cuộc đ́nh chiến ở Đông Dương để đánh đổi
lấy việc Pháp rút khỏi EDC. Nhưng
Bidault, với tư cách đại diện của Pháp,
tỏ ra kiên quyết ủng hộ Cộng đồng và lập
trường của ông ta không lay chuyển. Tuy
vậy đối với ông, Đông Dương cũng thành
một vấn đề; xu hướng chính trị và cá
nhân ông thiên về một “giải pháp quân
sự”, nhưng ông ta lại được chỉ thị phải
t́m kiếm một sự “giàn xếp về ngoại giao”
đủ cho điều đó, có nghĩa là phải giao
dịch với Việt Minh. Do đó, Bidault cần
và tích cực sự tranh thủ giúp đỡ của
Liên Xô. Trong những ngày tiếp theo,
Bidault đă gặp riêng Molotov, Eden và
Dulles để mong đưa được vấn đề Đông
Dương vào chương tŕnh nghị sự Hội nghị
Genève sắp họp. Nhưng Dulles vẫn cứng
rắn dù cho lúc đó ông cũng đồng ư. Nói
cho cùng th́ đây là một cuộc chiến tranh
của Pháp và chính phủ Laniel không thể
nào hoàn toàn tránh không chịu thương
lượng mà không bị dư luận dân chúng ghét
bỏ và làm cho bản thân chính phủ sụp đổ
trước các đảng phái đối lập chống chiến
tranh.
Hội nghị đă kết thúc ngày 18-2 mà chẳng
đi tới được một sự thoả hiệp nào về việc
thống nhất nước Đức hay một hiệp định về
Áo. Nhưng trước khi kết thúc, những
người tham dự hội nghị đă đồng ư chấp
nhận đề nghị của Molotov, mở cuộc đàm
phán hoà b́nh ở Viễn Đông của 5 nước lớn
tại Geneve vào ngày 26-4 để thảo luận về
cách thức và biện pháp đi tới một cuộc
hoà giải về vấn đề Triều Tiên và bàn
việc văn hồi hoà b́nh ở Đông Dương.
Dulles đă thành công trong việc chống
lại những cố gắng của Liên Xô muốn dành
cho Trung Cộng quy chế của một cường
quốc đỡ đầu hội nghị và đă đ̣i phải ghi
trong thông cáo Berlin lời tuyên bố là
việc mời hoặc tham dự Hội nghị Genève
không bao hàm một sự công nhận về ngoại
giao. Tuy vậy, khi Dulles trở về
Washington ngày hôm sau, ông đă gặp
không ít khó khăn trong việc thuyết phục
các lănh tụ Quốc hội là việc Trung Cộng
ngồi với đại diện của Mỹ tại bàn hội
nghị sẽ không có nghĩa là Mỹ công nhận
chế độ Bắc Kinh.
***
Cũng vào thời gian đó (tháng 12-1953 -
tháng 1-1954), lực lượng của Giáp bắt
đầu chiếm lĩnh trận địa chung quanh Điện
Biên Phủ, đồng thời tiếp tục xâm nhập
vào Lào. Các cố gắng của Navarre nhằm
chặn đứng làn sóng đỏ đă không dạt kết
quả, quân đội lại bị tổn thất nặng, bị
phân tán nhất là không quân. Ngày 6-2,
Lầu Năm góc công bố tin gửi 40 máy bay
B.26 và 200 nhân viên kỹ thuật dân sự Mỹ
sang Đông Dương. Đô đốc A.W. Radford,
Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên
quân, khi điều trần về việc này trước Uỷ
ban Đối ngoại Hạ nghị viện một tháng
trước khi Điện Biên Phủ bị bao vây, đă
nói rằng kế hoạch Navarre là “một khái
niệm chiến lược quy mô lớn, chỉ trong
một vài tháng sẽ tạo ra một sự chuyển
biến thuận lợi cho tiến tŕnh phát triển
cuộc chiến tranh”.
Báo chí Mỹ b́nh luận nhiều về lời công
bố 6-2 cho rằng việc phái các chuyên
viên có thể chỉ là một tiền đề cho việc
gửi quân chiến đấu sang Đông Dương để
bảo lănh cho người Pháp đang bị lung
lay. Hai ngày sau khi có công bố, thượng
nghị sĩ M. Mansfield đă chất vấn ở
Thượng viện có phải v́ người Pháp không
thể chống đỡ được nữa nên chúng ta bắt
buộc phải đưa Không quân và Hải quân
sang chi viện giúp họ? Phải chăng điều
đó có nghĩa là nếu t́nh h́nh đ̣i hỏi th́
quân chiến đấu Mỹ cũng sẽ được phái sang
đó? Để làm giảm nhẹ những sự lo ngại này
và cũng là để hỗ trợ cho lập trường của
Radford, 3 ngày sau, Bộ trưởng Quốc
pḥng C.E. Wilson tuyên bố sẽ không có
phi công và bộ binh chiến đấu Mỹ ở Đông
Dương, và c̣n nói thêm là không hề có kế
hoạch chi viện nào đă được vạch ra “ở
mức cao hơn như hiện nay”. Wilson bác bỏ
ư kiến cho rằng Đông Dương có thể trở
thành một Triều Tiên khác đối với Mỹ.
Ông nói theo quan điểm chúng ta và của
người Pháp “cuộc chiến tranh đang có khả
năng và có thể đưa đến một thắng lợi
quân sự đúng như chúng ta dự kiến trong
giai đoạn này”.
Yêu cầu tăng viện của Pháp và lời trấn
an của các quan chức Mỹ nói rằng “mọi
việc tiến triển tốt” đă không có nghĩa
ǵ đối với người dân b́nh thường. Tại
cuộc họp báo của Tổng thống ngày 10-2,
Marvin Arrowsmith, thuộc hăng thông tấn
A.P đă hỏi Eisenhower có phải “việc gửi
các chuyên gia sang Đông Dương sẽ có thể
dẫn đến việc chúng ta tham gia vào một
cuộc chiến tranh nóng ở đó không?”. Tổng
thống chỉ trả lời: “… Không ai có thể
chống đối gay gắt hơn tôi trong việc để
cho Mỹ dính líu vào một cuộc chiến tranh
nóng trong vùng này; v́ vậy mọi hành
động tôi cho phép đều được tính toán… để
không thể xảy ra chuyện đó”. Daniel
Schorr của đài CBS nắm ngay lấy điều đó
và chất vấn có phải nhận xét của Tổng
thống có nghĩa là “ngài quyết tâm không
để cho bị lôi cuốn vào chiến tranh hay
có lẽ là vào sâu hơn trong chiến tranh
Đông Dương, bất kể cuộc chiến tranh sẽ
diễn biến ra sao?”. Tổng thống đă đáp
lại, “Tôi không muốn tiên đoán xu hướng
phát triển t́nh h́nh thế mới trong lúc
này… Tôi nói là tôi không thể tạo ra một
thảm kịch lớn hơn nữa cho nước Mỹ để bị
lôi kéo sâu hơn nữa với những đơn vị lớn
vào một cuộc chiến tranh toàn diện,
trong bất kỳ nơi nào trong vùng này”.
Tổng thống kết thúc nhận xét với Schorr
bằng cách biện minh cho sự can thiệp của
Mỹ cho “v́ đây là trường hợp của các
nước độc lập và tự do chống lại sự lấn
chiếm của Cộng sản”. Nhưng Tổng thống đă
bỏ qua một quan điểm quan trọng: chỉ có
nước Pháp mới “độc lập và tự do”, c̣n
Việt Nam là một xứ bán thực dân thuộc
địa, đang nửa chừng tham gia vào một
cuộc chiến tranh giành độc lập, chẳng
phải là một nước “độc lập và tự do” cho
tới khi có Hội nghị Genève, nghĩa là c̣n
hơn 5 tháng nữa.
Trong khi ở Mỹ c̣n đang sôi nổi tranh
căi về sự tham gia của quân đội Mỹ, dư
luận công chúng Pháp lại mong muốn có
một sự “rút ra” nhanh chóng khỏi cuộc
chiến tranh vô tận này. Lào đang bị đe
doạ nên Bộ trưởng Quốc pḥng Pleven nóng
ḷng muốn biết ở đó có được pḥng vệ
không. Hội đồng Quốc pḥng Pháp đă báo
cho ông biết phải chỉ thị cho Navarre
rút lui khỏi Thượng Lào nếu cần, nhưng
phải nhớ là việc bảo đảm an toàn cho
quân viễn chinh Pháp vẫn là vấn đề ưu
tiên số một. Pléven sang Đông Dương
tháng 2-1954 để trực tiếp thanh tra t́nh
h́nh tại chỗ. Đi cùng c̣n có tướng Paul
Ély, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng,
tướng Fay, Tham mưu trưởng không quân và
tướng C. Blanc Tham mưu trưởng lục quân.
Đoàn thanh tra đă gặp tướng Navarre và
tướng Ély đă tỏ ra lo ngại cho chiến
lược “cứ điểm con nhím” sẽ chỉ là “một
thứ bày cỗ sẵn cho Việt Minh xơi”.
Navarre biện bạch cho chiến lược hoàn
chỉnh của ông ta, vừa cách ly được Việt
Minh, lại vừa nắm được lực lượng cơ động
trong tay. Ngay như đối với Điện Biên
Phủ, một trong các “cứ điểm” ngoại vi,
Navarre nói chưa chắc đối phương đă chịu
dành lực lượng bao vây cứ điểm đó. Ông
ta cho rằng mặc dù Việt Minh có ư định
tấn công cứ điểm nhưng đă phải bỏ chỉ v́
cứ điểm đă được bố pḥng khá mạnh. Lúc
đó, tướng Fay có hỏi về việc sử dụng sân
bay Điện Biên Phủ sau các trận mưa lũ.
Navarre đáp lại là không ai báo cáo cho
ông biết có nhược điểm ǵ đặc biệt ở đây
nhưng ông cũng sẽ xem xét vấn đề này.
Đoàn thanh tra trở về Pháp ngày 1-3. Báo
cáo quân sự và chính trị đă vẽ ra một
h́nh ảnh bi đát. Các tướng kết luận
“Không giải pháp quân sự nào có thể thực
hiện được”; dù cho có tăng viện mạnh mẽ
đến đâu chăng nữa và bằng bất kỳ cách
nào cũng không thể tác động giúp cho có
lối thoát. Pléven cho t́nh h́nh chính
trị hoàn toàn không thuận lợi cho người
Pháp. Ông nhận định Việt Minh có thể
không được người ta ưa chuộng nhưng lại
được người ta sợ và tôn trọng. Số các
làng xă trước đây do chính phủ Bảo Đại
kiểm soát nay giảm sút dần theo chiều
thuận với sự mở rộng vùng của Việt Minh.
Pléven đề nghị phải hết sức cố gắng ở
Genève để tranh thủ được một giải pháp
có thể chấp nhận được. Nhưng ông cũng
khuyên phải chống lại sự giao thiệp trực
tiếp với ông Hồ v́ như thế sẽ bị phe Bảo
Đại coi như là một sự phản bội. Do đó
lời giải đáp duy nhất là phải lợi dụng
Hội nghị Genève làm con đường danh dự để
kết thúc chiến tranh.
Chính phủ Paris hoảng sợ. Người ta cảm
thấy không c̣n thời gian nữa và phải làm
ngay một cái ǵ thật dữ dội để cứu văn
lấy cái thuộc địa cũ kia. Sau các cuộc
vận động thường diễn ra giữa phái diều
hâu và phái bồ câu, ngày 5-3 Lamel đưa
tŕnh trước Quốc hội các điều khoản cho
một cuộc ngừng bắn:
1- Tất cả quân đội Việt Minh rút khỏi
Lào.
2- Vạch “một tuyến không người” chung
quanh đồng bằng sông Hồng và tất cả lực
lượng Việt Minh, dưới sự kiểm soát, phải
rút ra ngoài.
3- Ở Trung Bộ, tập trung các lực lượng
Việt Minh vào một khu vực sẽ được ấn
định sau.
4- Tước vũ khí hoặc cho rút lui tất cả
quân đội Việt Minh ở Cambodia và Nam Bộ.
Người kém thông thạo nhất cũng thấy ngay
được các điều kiện của Laniel đ̣i hỏi
một sự đầu hàng của Việt Minh và thể
hiện chỉ là một hy vọng ngây ngô qua một
hành động tuyệt vọng trong giờ chót để
kết thúc cuộc chiến tranh mà 7 năm chiến
đấu ṛng ră cũng đă không đạt được.
Rơ ràng là họ không chịu điều đ́nh với
những người “bồi” của thời đại thực dân
cũ. Ông Hồ và các cố vấn của ông cũng
không non dại ǵ trong các cuộc vận động
chính trị quốc tế, nhưng dù sao th́ ngày
10-3, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng cho
biết là sẵn sàng xem xét đề nghị của
Pháp. Thực ra, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
cũng đă nghiên cứu đề nghị đó một cách
nghiêm chỉnh, không phải là trong khuôn
khổ các mục tiêu của Pháp, mà dưới ánh
sáng của tất cả những ảnh hưởng của Hội
nghị Genève sắp diễn ra.
Trong 6 tháng, ông Hồ và
các cố vấn của ông đă theo dơi một cách
chặt chẽ sự tham gia của Mỹ vào cuộc
chiến tranh. Các tin tức từ Mátxcơva,
Delhi và Bắc Kinh đă chỉ ra mối đe doạ
là Mỹ càng ngày càng tích cực đứng vào
bên cạnh Pháp. Lời tuyên bố mới nhất của
Eisenhower trong cuộc họp báo ngày 10-3
làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lo
ngại v́ nó đă gợi ra vấn đề Mỹ có kế
hoạch trực tiếp tham gia vào Việt Nam,
sẵn sàng đến mức có thể thực hiện điều
đó bất cứ lúc nào. Trước ngày Eisenhower
gặp nhà báo, thượng nghị sĩ J.C. Stennis
trong Uỷ ban Quân vụ đă yêu cầu chúng ta
cho rút các chuyên gia không quân ra
khỏi Đông Dương. Ông nói “chúng ta đang
từng bước đưa một cách trực tiếp người
của chúng ta tham gia vào cuộc chiến
đấu. Sớm muộn rồi chúng ta cũng phải
hoặc chiến đấu hoặc tháo lui”. J.J.
Patterson, báo New York News, đă chộp
lấy điều đó và hỏi Tổng thống cho biết
“chúng ta sẽ làm ǵ nếu như một trong số
người của chúng ta ở đó bị bắt hoặc bị
giết?”. Tổng thống đáp lại “Tôi muốn nói
điều này “sẽ không có sự tham gia của Mỹ
vào cuộc chiến tranh, nếu đó không phải
là kết quả của một hành động hợp hiến
được Quốc hội chấp thuận và cho tuyên
bố”. Thực rơ như ban ngày, và do đó Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà có thể nhận thức
được dễ dàng là chiều hướng đang đi tới
một sự tham gia tích cực, và Eisenhower
đă lựa chọn một sự can thiệp trực tiếp
công khai của Mỹ.
Rơ ràng là đối với vấn đề Mỹ nhúng tay
vào Việt Nam cuối năm 1953 chẳng một ai
lại đồng t́nh cho chúng ta đi sâu vào
cuộc xung đột Pháp - Việt đến mức như
thế. Bộ Lục quân đă tỏ ư nghi ngờ đối
vối ư kiến của một số người hoạch định
chính sách cho rằng chúng ta cần phải
tiếp tục viện trỡ quân sự và giúp đỡ cho
Pháp để cuối cùng sẽ không phải đưa bộ
binh chiến dấu vào. Họ đă lập luận là
nếu như vùng này thực sự quan trọng đối
với lợi ích an ninh của Mỹ như Hội đồng
An ninh Quốc gia đă xác nhận th́ vấn đề
cần phải được giải quyết một cách dứt
khoát hơn bằng cách đi tới một sự hoà
giải đặc biệt. Cục tác chiến Bộ Tổng
tham mưu Lục quân đă đề ra một cách ít
kiên quyết hơn là Lục quân không có khả
năng đưa quân lính tham gia chiến đấu
trên đất liền ở Đông Dương trong khi Mỹ
phải xúc tiến đồng thời các chương tŕnh
quân sự ở châu Âu và Viễn Đông. Họ gợi ư
đánh giá lại sự quan trọng của Đông
Dương và Đông Nam Á so với cái giá phải
trả để cứu văn các khu vực này.
Nhưng do t́nh h́nh Pháp suy sụp nhanh
chóng vào tháng 12 và tháng 1, Bộ Quốc
pḥng đă phải xét đến vấn đề can thiệp
vào Đông Dương để đảm bảo đất nước này
không bị rơi vào tay Cộng sản. Lần này,
chẳng ai có ư kiến ǵ khác. Trưởng pḥng
tác chiến Hải quân, đô đốc R. Anderson
đề nghị với Bộ trưởng Wilson (ngày
6-1-1954) cho chúng ta đưa các đơn vị
chiến đấu ngay tới Đông Dương chỉ dựa
trên “sự đảm bảo ủng hộ mạnh mẽ, hợp lư
của dân bản xứ đối với quân đội của
chúng ta “dù có được chính phủ Pháp đồng
ư hai không đồng ư”. Phó đô đốc A.C.
Davis, Giám dốc Nha quân vụ đối ngoại Bộ
Quốc pḥng lại nhận xét vấn đề với những
lập luận vững chắc hơn:
'Việc quân Mỹ tham chiến ở Đông Dương
phải được tránh bằng mọi giá. C̣n nếu
như lúc đó, chính sách quốc gia quyết
định không thể có biện pháp thay thế nào
khác th́ Mỹ không nên tự dối ḿnh, cho
rằng có khả năng chỉ cần tham gia một
phần thôi, như “chỉ sử dụng đơn vi không
và hải quân”. Chẳng ai có thể vượt được
thác Niagara chỉ bằng một cái thuyền
con”.
Và Davis nói tiếp:
“Chú ư: Nếu việc đưa các lực lượng không
quân và hải quân vào tham chiến ở Đông
Dương được xác định là thuận lợi th́ khó
có thể mà nghĩ rằng có thể làm thế nào
để tránh không phải đưa lục quân vào v́
nhất định là phải có căn cứ, mà việc bảo
vệ các căn cứ và bến cảng này tất nhiên
sẽ đ̣i hỏi phải có lực lượng mặt đất của
Mỹ và… cũng cần phải có đơn vị chiến đấu
mặt đất để hỗ trợ cho việc di tán khi bị
uy hiếp. Điều đó bắt chúng ta phải hiểu
rằng một khi đă lao vào th́ không có
biện pháp rẻ tiền nào để tiến hành một
cuộc chiến tranh”.
Sự khác biệt quá rơ ràng giữa một bên là
sự đánh giá cao về quan trọng chiến lược
của chúng ta đối với Đông Dương và một
bên là sự bất lực của chúng ta để đi đến
một quyết định dứt khoát về việc sử dụng
quân đội ở Đông Dương cần cho việc bảo
vệ vùng đất này, đă đ̣i hỏi Hội đồng An
ninh Quốc gia phải họp bàn (ngày
8-1-1954). Đại diện Bộ Ngoại giao và Bộ
Quốc pḥng đă có nhiều ư kiến về việc
khi một trong hai t́nh huống sau đây sẽ
xảy ra: một, người Pháp bỏ cuộc; và hai,
Pháp yêu cầu phải có số lớn quân đội Mỹ.
Bộ Ngoại giao cho rằng t́nh h́nh Pháp đă
quá nguy hiểm đến mức “bắt buộc Mỹ phải
quyết định ngay việc sử dụng quân đội Mỹ
trong cuộc chiến đấu ở Đông Nam Á”.
Nhưng đại diện Bộ Quốc pḥng đă từ chối
không dám đảm bảo cho việc Mỹ can thiệp.
Cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia
đă để trống vấn đề hành động của Mỹ
trong trường họp cần thiết không thể
chối căi được phải có quân đội để ngăn
ngừa không để “mất” Đông Dương. Nhưng
vấn đề này, các tham mưu trưởng Liên
quân đă có thái dộ thẳng thắn. Các Tham
mưu trưởng liên quân cho rằng kế hoạch
Navarre cơ bản là tốt, nhưng dứt khoát
đă bị thất bại v́ hố ngăn cách chia rẽ
giữa người Pháp và người Việt, v́
Navarre thiếu sót không chịu thực hiện
những lời khuyên bảo của chúng ta, và v́
Paris chần chừ trong việc cần thiết phải
có nhân nhượng chính trị đối với chính
phủ Bảo Đại. Do đó các Tham mưu trưởng
Liên quân đă từ chối cả việc dùng quân
chiến đấu Mỹ cũng như sự ủng hộ việc sử
dụng đó một cách dứt khoát.
V́ không giải quyết được một cách rơ
ràng vấn đề cơ bản của sự can thiệp Mỹ,
Bộ Quốc pḥng và Hội đồng Tham mưu
trưởng Liên quân đă đi đến một “giải
pháp” liên tịch - chỉnh đốn lại những
chỗ suy yếu của Pháp. Họ giữ lập trường
là sẽ có biện pháp quân sự thay thế ở
mức vừa đủ để Pháp không đ̣i hỏi phải có
sự can thiệp trực tiếp của Mỹ. Đại diện
Bộ Quốc pḥng nêu ra ba lư do đă làm
t́nh h́nh Pháp xấu đi: thiếu tinh thần
quyết thắng, sự ngoan cố không chịu giải
quyết yêu cầu độc lập thực sự của người
Đông Dương, và việc họ từ chối không
chịu đào tạo các sĩ quan chỉ huy người
bản xứ. Bộ Quốc pḥng cho rằng trước khi
Mỹ can thiệp th́ vấn đề cơ bản phải được
giải quyết là Mỹ có sẵn sàng làm áp lực
một cách mạnh mẽ trước hết là trong
khuôn khổ Cộng đồng pḥng thủ châu Âu
(EDC) bắt Pháp ở Paris cũng như ở Đông
Dương phải có những biện pháp thích đáng
để sửa lại các thiếu sót của họ. Theo Bộ
Quốc pḥng, chỉ khi nào các biện pháp đó
được xúc tiến th́ Mỹ mới chịu xem xét
một cách nghiêm chỉnh việc đưa lục quân
chiến đấu vào bảo vệ quyền lợi của Pháp
và các quốc gia Liên hiệp. Tác dụng thực
sự của lập trường Bộ Quốc pḥng và Hội
đồng Tham mưu trưởng Liên quân là nhằm
đối phó với ư kiến cho rằng một hành
động quân sự nhanh chóng của Mỹ ở Đông
Dương là vừa có thể làm được lại vừa cần
thiết.
Nhận thức rơ t́nh h́nh hết sức bấp bênh
của Pháp ở Đông Dương, điều mà Mỹ chỉ
phỏng đoán mà không biết đích xác,
Pléven đă đề nghị (ngày 11-3) với Hội
đồng Bộ trưởng để tướng Ély nhận lời mời
của đô đốc Radford sang tham Washington.
Ông ta có nhiệm vụ trao đổi với các nhà
lănh đạo Mỹ sự thật về t́nh h́nh quân sự
để Mỹ sẽ không đến Genève với tư tưởng
là sắp giành được chiến thắng quân sự.
Điều lo lắng trước hết của Pháp cũng như
Mỹ là mối đe doạ Trung Cộng can thiệp.
Không ai lạ ǵ việc Việt Nam nhận được
những phi cơ MiG-15 của Liên Xô sản xuất
và do phi công Trung Quốc lái sẽ có thể
gây tai hoạ cho đội không quân bé nhỏ và
yếu ớt của Pháp ở Đông Dương. Pleven
cũng không hài ḷng là đă không có một
hiệp định được kư kết với Mỹ về hành
động của chúng ta phải làm ǵ trong
những trường hợp tương tự. Bidault cho
biết chỉ có một sự thoả thuận miệng của
chúng ta và chỉ nói là sẽ xem xét lại
vấn đề khi t́nh h́nh có ǵ xảy ra.
Bidault đă đảm bảo với các Bộ trưởng
rằng, theo ư riêng ông ta, Mỹ sẽ trân
trọng thực hiện điều đă nói. Nhưng
Pleven không thoả măn: ông ta muốn có sự
cam kết cụ thể hơn và Ély đă nhận được
chỉ thị phải làm mọi cách để đạt được
điều đó.
***
Ngày 13-3, Quân đội Nhân dân Việt Nam,
dưới quyền chỉ huy trục tiếp của tướng
Giáp, khởi đầu cuộc tiến công vào Điện
Biên Phủ. Cái pháo đài mới được tăng
cường này đă có tầm quan trọng về một
chính trị và tâm lư hơn hẳn giá trị
chiến lược thực tế của nó v́ Hội nghị
Genève sắp khai mạc. Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đă thấy được một cách đúng đắn
đây là một trận đánh có tính chất quyết
định, không phải chỉ nhằm giành dược một
chiến thắng vang dội, mà sẽ làm cho họ
mạnh hẳn lên, họ đă chuẩn bị bao vây cứ
điểm này.
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng c̣n nhằm
đánh cho quân đội Liên hiệp Pháp một đ̣n
chí tử để gây tác động tâm lư đối với
nước Pháp, làm nhân dân Pháp và những
người Việt chống Cộng mất ư chí tiếp tục
cuộc đấu tranh.
Trong khi Laniel đưa ra với Việt Minh
những điều kiện phi lư về một cuộc ngừng
bắn, th́ người Việt Nam cũng đă chuẩn bị
xong cho trận Điện Biên Phủ. Sự chuẩn bị
đă được bắt đầu từ cuối tháng 11-1953,
khi Navarre quyết định đánh chiếm lại
cái tiền đồn nhỏ này mà Việt Minh th́
lại quyết tâm “giải phóng” nó.
Việt Minh đă cho xúc tiến những cố gắng
ghê gớm về công tác hậu cần và tác
chiến, có phần nào giống như những biện
pháp của thế kỷ XVIII, nhưng đến thế kỷ
XX này vẫn c̣n phát huy tác dụng rất
lớn. Trung Cộng đă viện trợ cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà về mặt vật chất và sau
đ́nh chiến Triều Tiên đă gửi thêm tới
nhiều cố vấn quân sự. Một viên tướng cao
cấp Trung Quốc đă được phái tới hành
dinh của Giáp(13 ); nhiều sĩ quan khác
được đưa vào công tác ở các cấp khác
nhau của quân Việt Minh. Trung Cộng cũng
đă cung cấp cho Việt Nam khoảng 60 súng
cao xạ 35 ly do Nga chế tạo, các thiết
bị ra đa và nhiều khẩu đội Kachiusa
(súng phóng rocket nhiều ṇng) do người
Trung Quốc điều khiển để bảo vệ cho 100
pháo 105 ly (của Mỹ sản xuất) bố trí ở
các sườn núi bao quanh Điện Biên Phủ.
Người Trung Quốc c̣n góp thêm 1.000 xe
vận tải Môlôtôva đưa qua đường bí mật từ
Mông Tự, Trung Quốc, tới Điện Biên Phủ.
Nhưng kỳ công chủ yếu trong công tác hậu
cần quy mô khổng lồ của Việt Minh chính
là sự vận chuyển do họ tổ chức từ các
nguồn cung cấp địa phương. Nó đă đảm bảo
duy tŕ được một luồng tiếp tế và nhân
lực đầy đủ, vững chắc cho các đại đoàn
của Giáp đang bao vây quân Pháp ở Điện
Biên Phủ.
Rơ ràng là cuộc tấn công đă làm cho
người Pháp hoàn toàn bị bất ngờ. Khởi
đầu là một trận pháo kích bất ngờ dữ
đội, chứng minh cụ thể hoả lực phản pháo
và các cuộc đánh phá bằng đường không
của Pháp là không có hiệu quả. Người
Pháp đă mất ưu thế về binh lực (mặc dù
họ có 12 tiểu đoàn trong căn cứ) và mất
cả ưu thế về hoả lực. Trận đánh ác liệt
kéo dài bắt đầu từ ngày 13, đến ngày 18
th́ cứ điểm cuối cùng trong 3 cứ điểm
trên núi bảo vệ phía bắc Điện Biên Phủ
bị mất. Cứ điểm đầu tiên, Béatrice, bị
chiếm trong đêm 13 - 14 tháng 3; cứ điểm
thứ hai, Gabrielle mất ngày 15; và 3
ngày sau là Anne Marie, cứ điểm thứ ba
phải bỏ. Chi tiết trận đánh đă được mô
tả đầy đủ trong nhiều sách, đại loại như
cuốn “Con đường không vui” của Fall. Nếu
Giáp cứ tiếp tục phát triển tháng lợi
như những ngày đầu này th́ chắc chắn
rằng căn cứ chính cũng sẽ bị mất trong
ṿng 2 tuần lễ. Nhưng thực tế là cuộc
tấn công cuối cùng chỉ được phát động
vào ngày 7-5-1954.
Trong quá tŕnh diễn biến trận đánh,
những lời tuyên bố, riêng cũng như trước
công chúng, đầy lạc quan của Mỹ đă được
thay thế bằng luận điệu cho rằng nếu
không có những bước đi mới để đối phó
với sự viện trợ của Trung Quốc th́ Pháp
sẽ bị suy sụp. Tướng Ély đă đến
Washington ngày 20-3. Dulles và Radford
tỏ ra hết sức lo ngại về sự biến chuyển
đột ngột của t́nh h́nh. Họ muốn được
nghe Ély nói cho biết việc ǵ đă xảy ra
với kế hoạch Navarre và t́nh h́nh nghiêm
trọng đến mức nào. Ély đưa ra một nhận
định lạc quan và đảm bảo với người của
chúng ta là Điện Biên Phủ có thể chống
trả được khi đă được Mỹ cung cấp các máy
bay ném bom B.26. Tiếp đó Ély bàn đến
vấn đề can thiệp của Mỹ nếu như Tnmg
Quốc tham chiến, nhưng Dullẹs đă nói là
ông không thể trả lời về việc này. Ély
xem câu trả lời của Dulles là một sự
thay đổi lập trường của Mỹ, nhưng ông
không thất vọng v́ Eisenhower đă đồng ư
sẽ trực tiếp gặp ông ta.
Eisenhower đă tiếp Ély ở Nhà Trắng vào
sáng ngày 22-3. Đô đốc Radford cũng có
mặt trong buổi tiếp. Tổng thống cho biết
chúng ta sẽ thoả măn các yêu cầu xin
tăng thêm viện trợ của Pháp và nói
riêng, chúng ta sẽ tiếp tế với mọi khả
năng của chúng ta để cứu Điện Biên Phủ.
Tướng Ély được yêu cầu nán ở lại, để bàn
với Radford về các việc phải làm. Trong
cuộc họp ngày hôm sau, Radford đă đề
nghị dùng máy bay của Không quân và Hải
quân Mỹ tiến hành các cuộc tập kích lớn
ban đêm vào quân Việt Minh ở Điện Biên
Phủ và gọi đó là “Operation Vulture”(14
), sử dụng khoảng 60 máy bay ném bom
B.29 cất cánh từ căn cứ Clark Field ở
Phillippin và được 150 máy bay chiến đấu
của Hạm đội 7 Mỹ yểm hộ.
Trong khi Radford và Ély thảo luận về
Cuộc hành quân Chim Ó, Dulles họp báo
vào ngày 23 và tuyên bố một cách lạc
quan: “Tôi không cho rằng sắp tới Cộng
sản sẽ thắng trận ở Đông Dương”. Ông bỏ
qua các câu hỏi về vấn đề tăng thêm viện
trợ cho Pháp và nói không hay biết ǵ về
việc các yêu cầu đó có được đặt ra hay
không, nhưng ông lại thêm “nếu họ có yêu
cầu viện trợ vật chất và thực sự điều đó
là cần th́ chúng ta sẽ đáp ứng theo khả
năng nhanh chóng nhất của chúng ta”.
Trước khi Ély rời Mỹ, ông
ta đă nói chuyện một cách hoàn toàn
thẳng thắn với các quan chức của chúng
ta ở Lầu Năm góc và Bộ Ngoại giao. Thay
v́ cho mối lạc quan ngoài mặt đêm trước
là một sự nghi hoặc nghiêm trọng. Ít
nhiều Ély đă hở cho biết là Pháp sắp
điều đ́nh một cuộc ngừng bắn dù với
những điều kiện không thuận lợi nhất.
Cuộc tranh luận trong nội bộ chính quyền
(Mỹ) vào cuối tháng 3 đă đưa đến chỗ cho
người ta thấy:
1. Sự can thiệp một chiếu của Mỹ sẽ
không có hiệu quả nếu như không có lục
quân tham gia,
2. Việc sử dụng lục quân Mỹ là điều
không thể chấp nhận được xét trên phương
diện tiếp tế hậu cầu và chính trị,
3. Sự can thiệp để cứu nguy vùng này tốt
hơn hết là nên tiến hành dưới h́nh thức
một hành động tập thể của các quân đội
đồng minh.
Đó là ư nghĩa cuộc thảo luận của Hội
đồng An ninh Quốc gia, ư tổng quát các
báo cáo đặc biệt của tnmg tướng M.B.
Ridgway và Thứ trưởng Ngoại giao W.B.
Smith và của Tổng thống Eisenhower. Theo
đó, trong cuộc thảo luận với tướng Ély,
Dulles đă đi xa hơn vấn đề viện trợ
trước mắt ngay cho quân đội đóng ở Điện
Biên Phủ và vạch ra việc có thể thành
lập một tổ chức pḥng thủ khu vực cho
Đông Nam Á.
Đó chính là lúc mà chính quyền
Eisenhower bắt đầu xem xét lại lập
trường của ḿnh và từ bỏ việc đơn phương
can thiệp. Bất kỳ một sự can thiệp nào
của chúng ta sẽ chỉ là một bộ phận trong
hành động tập thể với các đồng minh châu
Âu và châu Á của chúng ta. Trong bài
diễn văn đọc tại Câu lạc bộ Báo chí nước
ngoài, ngày 29-3, Dulles đă báo động cho
công chúng biết t́nh h́nh nguy ngập của
Đông Dương và kêu gọi “hành động thống
nhất” - nhưng cũng không giải thích thêm
ư ông muốn nói ǵ. Khái niệm không được
xác định đó đă làm cho người Anh và
người Pháp và cả đến người Trung Quốc
phải kinh hoàng - Để làm giảm bớt nguy
cơ gây ra một sự phản ứng quá mức hay
một sự tính toán sai lầm, trong t́nh
trạng lộn xộn đó, Bộ Ngoại giao đưa ra
một lời giải thích mật là “hành động
thống nhất” can thiệp sẽ không nhằm mục
đích lật đổ hoặc tiêu diệt chế độ Bắc
Kinh. Thế rồi trong nội bộ chính quyền,
Bộ ngoại giao đề nghị:
1- Không có can thiệp quân sự Mỹ trong
lúc này, và không hứa hẹn ǵ điều đó với
người Pháp
2- Tiếp tục làm kế hoạch can thiệp bằng
quân sự,
3- Và thảo luận với các đồng minh có
tiềm năng về khả năng thành lập một khối
địa phương trong trường hợp xảy ra một
sự hoà giải không thể chấp nhận được ở
Genève.
Tất nhiên là t́nh h́nh của đồn quân bị
bao vây không cải tiến được. Giáp mở một
cuộc tấn công lớn ngày 30-3 làm cho sân
bay thường xuyên bị khống chế bằng hoả
lực và trở nên vô dụng cho người Pháp.
Ba ngày sau, quân đội Việt Minh tiến vào
chỉ c̣n cách trung tâm Điện Biên Phủ một
dặm trước khi dồn quân địch rút lui để
tập hợp lại.
Ngày 3-4, Tổng thống quyết định Mỹ sẽ
không can thiệp đơn phương. Bất kỳ sự
can thiệp nào của Mỹ cũng phải dựa trên
cơ sở của việc thành lập một lực lượng
liên minh với các đồng minh của Mỹ để
tiến hành “hành động thống nhất”, việc
Pháp công khai tuyên bố nhanh chóng thực
hiện độc lập cho các quốc gia Liên hiệp,
và phải được Quốc hội thông qua (mà điều
này sẽ phụ thuộc vào hai điều kiện ở
trên).
Tuy đă có những phương châm đường lối
chính trị như vậy nhưng Hội đồng An ninh
Quốc gia trong phiên họp ngày 6-4 lại
đưa ra một cách khá kỳ quặc những mục
tiêu trái ngược là Mỹ “nếu cần sẽ can
thiệp để tránh việc mất Đông Dương, và
chủ trương không từ một biện pháp nào để
làm cho người Pháp kết thúc thắng lợi
cuộc chiến tranh của chính họ”, và cũng
ủng hộ, coi như là phương thúc tốt nhất
thay thế cho việc Mỹ can thiệp, một tổ
chức địa phương trong đó người châu Á sẽ
tham gia ở mức tối đa.
Eisenhower đă chấp nhận ư kiến đề bạt
của Hội đồng nhưng dựa vào đó lại xác
định nỗ lực đầu tiên của chính quyền sẽ
hướng vào việc thành lập một tổ chức
pḥng thủ tập thể địa phương chống lại
sự bành trướng của Cộng sản, tranh thủ
sự ủng hộ của Anh đối với các mục tiêu
của Mỹ ở Đông Nam Á và làm áp lực với
Pháp để họ nhanh chóng thực hiện việc
cho Đông Dương độc lập.
Trong khi đó, Tổng thống ra sức t́m kiếm
ở hậu trường Quốc hội một sự ủng hộ cho
việc Mỹ tham gia vào một tổ chức địa
phương, và nếu có thể được th́ đồng thời
cũng bí mật khởi sự vạch kế hoạch động
viên quân đội.
Trong khi Tổng thống đi đến quyết định
ngày 3-4 chống lại việc can thiệp đơn
phương của Mỹ th́ tướng Ély trở về Paris
ngày 27-3, đă báo cáo lại cho Pleven
cuộc đối thoại của ông ở Washington, đặc
biệt là lời đề nghị phi thường của
Radford về việc xúc tiến cuộc hành quân
Chim Ó. Laniel cho triệu tập một cuộc
họp bí mật bất thường của các quan chức
cầm đầu nước Pháp để thảo luận về ư kiến
của Radford. Phản ứng của nhũng người
tham gia dự hội nghị, trong đó có
Pleven, Bidault và các nhà lănh đạo quân
sự, cùng nhiều người khác, rất hỗn độn.
Họ cảm thấy sự can thiệp của Mỹ lúc đó
sẽ gây ra một phản ứng dữ dội của người
Trung Quốc và sẽ mở rộng cuộc chiến
tranh (điều mà Bidault và nhóm diều hâu
không phải là không vừa ḷng) nhưng cũng
sẽ quốc tế hoá cuộc xung đột và làm cho
Pháp mất quyền chủ động (điều mà Lamel
không muốn). Một sĩ quan liên lạc được
phái đến Sài G̣n ngay 1 tháng tới để hỏi
ư kiến Navarre. Trả lời của ông này là
bằng mọi cách, nước Pháp phải chấp nhận
sự giúp đỡ để cứu Điện Biên Phủ và “ổn
định được t́nh h́nh”. Không hay biết ǵ
về quyết định của Eisenhower chống lại
việc can thiệp đơn phương, các quan chức
cầm đầu nước Pháp trong một phiên họp bí
mật khác ngày 4-4, đă đồng ư chấp nhận
đề nghị của Radford. Laniel cho mời đại
sứ Dillon tới gặp và đưa ra một đề nghị
chính thức để Mỹ can thiệp. Dillon thận
trọng nói phải chờ và trả lời của Dulles
cũng tới ngay lập tức nhưng không làm
cho người Pháp phấn khởi: Mỹ không thể
làm ǵ được v́ không có sự chấp thuận
của Quốc hội và không có sự hợp tác của
các nước đồng minh của Mỹ, đặc biệt là
Anh, và không có tuyên chiến th́ tất cả
mọi sự đều không thể thực hiện được. Như
thế là yêu cầu của Pháp đă bị gạt bỏ và
Điện Biên Phủ phải tự thu xếp lấy số
phận của ḿnh.
Khi những cố gắng của Pháp ở Điện Biên
Phủ đă bắt đầu chững lại và vấn đề Mỹ sẽ
làm ǵ đă tới một điểm cấp bách th́
chính quyền Eisenhower đă từ bỏ sự can
thiệp đơn phương.
Bộ Quốc pḥng vẫn tỏ ra miễn cưỡng trước
việc Lục quân nhấn mạnh rằng chỉ riêng
có hoạt động của Không quân, Hải quân
th́ chẳng làm được chuyện ǵ và nhất
định cần phải có quân bộ. Kinh nghiệm
Triều Tiên vẫn c̣n sống động và ư nghĩ
đến một cuộc chiến tranh trên bộ khác ở
châu Á đă làm cho mọi người phải ngập
ngừng. Hơn nữa, Eisenhower không muốn
lao vào một cuộc phiêu lưu mà không có
sự đồng ư của Quốc hội, c̣n thái độ của
Quốc hội lại tuỳ thuộc vào sự tham gia
của các đồng minh. Do đó, Dulles đă ra
sức thuyết phục Anh, Pháp và các đồng
minh châu Á tham dự vào một liên minh
“thống nhất hành động”.
Thái Lan và Philippin đă đáp ứng một
cách thuận lợi đối với lời kêu gọi “hành
động thống nhất”, nhưng Anh th́ tỏ ra
thận trọng và ngập ngừng. Churchill chấp
nhận gợi ư của Eisenhower phái Dulles
tới London để hội đàm. Nhưng người Anh
cảm thấy nguy hiểm trong việc nóng vội
đi đến một liên minh pḥng thủ trước khi
có hội nghị Genève, Eden quyết không để
cho bị “xô đẩy vội vàng vào những quyết
định quân sự ngu dại”.
Dulles bay tới London rồi lại tới Paris
(11-14 tháng 4). Tại London, ông đă bị
cả Churchill và Eden phản đối kịch liệt.
Trong ư nghĩ, Dulles chỉ muốn buộc người
Anh vào một liên minh mà sau này đă phát
triển thành Tổ chức pḥng thủ Đông Nam Á
(SEATO). Ông cho rằng điều đó sẽ răn đe
không cho Trung Quốc can thiệp sâu thêm
nữa vào Đông Dương và nhờ có đoàn kết mà
địa vị các nước phương Tây sẽ được củng
cố thêm. Eden không chịu, ông phản đối
mọi hành động quân sự hay một sự cảnh
cáo nào trước khi có hội nghị Genève.
Ngoài ra, Pháp lại không được mời dự vào
liên minh đó. Eden tin rằng Pháp muốn
đến Genève với một thái độ tự do hành
động hoàn toàn và không bị điều ràng
buộc ǵ có thể hạn chế họ trong việc
thực hiện được hoà b́nh. Dulles nhận
định lập trường của Anh là một thứ nhằm
đi đến thoả hiệp, sợ sự tham gia của Mỹ
sẽ làm tăng thêm nguy cơ Trung Quốc can
thiệp và là một sự mở rộng chiến tranh.
Sau những cuộc hội đàm này, mối quan hệ
giữa Dulles và Eden đă hoàn toàn trở nên
căng thẳng. Dulles tức giận về cách của
Eden bỏ rơi Đông Dương; c̣n Eden, ông
rất bi quan về ư đồ quân sự của Dulles
trong một vùng giá trị không chắc chắn
nhưng Mỹ lại có những kế hoạch mập mờ và
hết sức phiêu lưu. Hơn thế nữa, người
Anh lại nghĩ rằng Đông Dương không thể
bị mất hết hoàn toàn ở hội nghị Genève
v́ thiếu chưa có “hành động thống nhất”.
Họ đă bị người Mỹ làm cho bối rối về câu
chuyện “mất” Đông Dương; ở Bộ Ngoại giao
Anh, người ta cho rằng Pháp không thể
thua trận trong thời gian từ nay (tháng
4-1954) cho đến khi bắt đầu mùa mưa dù
cho họ đánh nhau có kém đi chăng nữa.
Dulles cũng chẳng thu được ǵ tốt hơn ở
Paris. Người Pháp đang t́m kiếm một hành
động nhanh chóng để tránh cho Điện Biên
Phủ bị thất trận đến nơi. Nhưng Dulles
lại không muốn cho ḿnh bị lôi kéo xa
rời khỏi phương thức liên minh tập thể
để giải quyết cuộc chiến tranh. Pháp
cũng sợ rằng một tổ chức liên minh, tất
nhiên là quốc tế, sẽ nắm lấy quyền kiểm
soát cuộc chiến tranh từ tay họ; nên họ
chỉ muốn có một sự giúp đỡ trong khu vực
ở Điện Biên Phủ theo kiểu “Hành quân
Chim ó”. Người Pháp c̣n phản đối v́ cho
không cuộc vận động cho “hành động thống
nhất” sẽ chỉ ngăn trở hoặc làm chậm lại
các cuộc thương lượng hoà giải mà họ
càng ngày càng mong đợi. Mục tiêu của
người Mỹ chúng ta lại nhằm làm cho người
Pháp giữ vững quyết tâm tiếp tục cuộc
chiến đấu.
Thủ tướng Laniel khẳng định với Dulles
là chính phủ của ông sẽ không làm ǵ để
trực tiếp hoặc gián tiếp trao Đông Dương
cho Cộng sản. Nhưng ông c̣n nhắc nhở
Dulles về ḷng mong muốn mănh liệt của
người Pháp để rút khỏi Đông Dương bằng
bất cứ giá nào. Laniel nhấn mạnh sự cần
thiết phải chờ kết quả của hội nghị
Genève và người Pháp không cho thấy
trước cảm giác họ cho Genève sẽ không
thành công.
Cố gắng đến cùng, Dulles ở Paris và
Bedell Smith ở Washington ra sức thuyết
phục Pháp là chỉ có kêu gọi Anh can
thiệp, như họ đă kêu gọi Mỹ, mới có thể
cứu nguy được cho Điện Biên Phủ. Nhưng
người Anh vẫn không lay chuyển.
Churchill đă bác bỏ đề nghị của đại sứ
Pháp René Massighi muốn Anh tuyên bố Anh
sẽ liên kết với Mỹ và Pháp trong việc
phong thủ Điện Biên Phủ. Ngày 15-4,
Dulles đă trở lại Washington chỉ với
những lời hứa của Anh và Pháp “sẽ nghiên
cứu khả năng pḥng thủ tập thể” cho Đông
Nam Á và Tây Thái B́nh Dương, mà chẳng
có ǵ đáng phấn khởi cho một hành động
phối hợp.
Điện Biên Phủ tất nhiên đă đi đến bước
đường cùng vào cuối tháng 4. Giáp đă đào
hầm hào bao vây lấy người Pháp và khoá
chặt mọi đường rút lui. Ngày 21-4, tướng
Christian De Castries, tư lệnh quân Pháp
yêu cầu tăng viện người và vũ khí tiếp
tế “bằng bất cứ giá nào”. Trong khi đó,
đă có thêm 45.000 quân Việt Minh đến bổ
sung cho 4 sư đoàn đang bao vây khoảng
16.5 00 người trong cứ điểm Pháp. Đến
ngày 23, lực lượng của Giáp đă tiến sâu
vào chỉ cách trung tâm Điện Biên Phủ gần
700 thước.
***
Trong khi cuộc đấu tranh vô vọng ở Điện
Biên Phủ tiếp tục th́ ngày 26-4, khởi
đầu phần một hội nghị Genève. Phần này
chỉ hạn chế vào vấn đề Triều Tiên, song
Chu Ân Lai, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Trung Quốc, lại yêu cầu Mỹ và
các cường quốc phương Tây khác không
được tham dự vào các vấn đề của Viễn
Đông. Dulles đưa lư do là quyền của Mỹ
là một điều đă được khẳng định. Nhưng
Chu đáp lại Triều Tiên là một vấn đề của
châu Á và phải do những người châu Á
giải quyết “bằng cách t́m kiếm những
biện pháp chung để bảo đảm hoà b́nh và
an ninh ở châu Á”. Bộ trưởng Ngoại giao
Liên Xô Molotov ủng hộ ư kiến của Chu và
thêm vào “các dân tộc châu Á có toàn
quyền để giải quyết công việc của chính
phủ họ”.
Dulles trở về Washington ngày 4-5 và
ngày 7 công khai tuyên bố theo kế hoạch
đă định trước, ông đă uỷ cho Thứ trưởng
Ngoại giao, tướng W. Bedell Smith đại
diện cho ông ở Hội nghị Genève. Ông chê
trách người Pháp đă không trao trả độc
lập cho các quốc gia Liên hiệp mà theo
ông cách đó sẽ tước bỏ được lư do đ̣i
lănh đạo cuộc đất tranh giành độc lập
của nhũng người Cộng sản. Rồi ông tiên
đoán về sự thất thủ không thể tránh khỏi
của Điện Biên Phủ, nhưng lại trấn an
“việc mất Điện Biên Phủ sẽ củng cố, chứ
không làm suy yếu đi, mục tiêu của chúng
ta là đoàn kết lại với nhau”. Ông đưa ra
một câu hỏi hùng hồn: “Chúng ta sẽ làm
ǵ chung quanh cuộc xung đột ở Việt
Nam?”. Ông cảnh báo về nguy cơ “Cộng sản
nắm chính quyền và sẽ cố xâm lược mới
thêm”. Ông nói “Nếu việc đó xảy ra, yêu
cầu cấp bách hơn hết là phải tạo điều
kiện để tiến hành hành động thống nhất
để pḥng thủ khu vực”. C̣n về vấn đề
trực tiếp can thiệp và tuyên chiến,
Dulles nhấn mạnh là Eisenhower sẽ không
có hành động ǵ mà không có sự chấp
thuận của Quốc hội.
Ở Điện Biên Phủ, tiếng
súng cuối cùng im lặng vào khoảng 2 giờ
sáng, giờ dịa phương, ngày 8-5-1954. Và
đến 4 giờ chiều hôm đó, giai đoạn hai
Hội nghị Genève được triệu tập để thảo
luận vấn đề Đông Dương. Đó là một cuộc
gặp gỡ giữa nhiều thế lực chính trị và
kinh tế khác nhau, có Pháp và Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà thủ vai tṛ chính nhưng
đồng thời cũng có những mối quan hệ
khách và chủ đối với các cường quốc.
Cuộc hội nghị mở đầu một cách gay cấn
trong một bầu không khí ảm đạm, không
chắc chắn và đầy nghi ngờ. Khối Cộng sản
nắm toàn bộ các chủ bài.
Tất cả những người tham dự hội nghị đều
mang theo những động cơ riêng của ḿnh,
không có ai tỏ ra vị tha v́ người khác:
Pháp đă mất hết ư chí chiến đấu và mong
muốn có một cuộc hoà giải nhanh chóng;
Mỹ đă thất bại trong việc cố buộc Pháp
vào hoạt dộng quân sự thống nhất nhằm
đấu tranh chống lại sự bành trướng của
Cộng sản ở Đông Nam Á nhưng vẫn theo
đuổi nục đích ngăn chặn Cộng sản; Anh
mong thiết lập lại hoà b́nh và làm giảm
căng thẳng quốc tế đang tác động tai hại
đến quyền lợi Anh trong vùng; Trung Cộng
lại muốn nắm lấy thời cơ để đối phó với
Mỹ trên một thế b́nh đẳng trong các vấn
đề quốc tế; c̣n Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà th́ mong muốn và hy vọng được công
nhận như là một thực thể có chủ quyền để
được đối xử một cách tương xứng với các
giá họ đáng phải được.
Trong số các bên tham dự hội nghị, chỉ
có Mỹ là nước ít bị rắc rối nhất về
phương diện lư tưởng. Từ lâu, chúng ta
đă lên tiếng về mối quan tâm của chúng
ta đối với qui chế tương lai của Đông
Dương, mà chúng ta quan niệm như là một
quốc gia độc lập dưới những h́nh thức và
mức độ khác nhau. Với thời gian, khái
niệm tự quyết đối với Đông Dương đă trở
nên lẫn lộn và nhất thời đă thoái hoá
thành một câu chuyện chỉ ở đầu lưỡi mặc
dù vẫn c̣n dược coi là một cao vọng lư
tưởng.
Chính sách của chúng ta tại Genève được
xác định dựa trên những nhận thức giả
tạo. Khi chúng ta cho rằng chúng ta phải
giúp cho người Đông Dương chống lại Cộng
sản để giành lấy tự do và độc lập th́
những lời tuyên bố chính thức của Mỹ và
thực tế lại không chứng minh được điều
đó. Trước hết là Acheson rồi sau đến
Dulles chỉ một mực nói về việc “ngăn
chặn Cộng sản”, chứ không nói ǵ đến tự
do khỏi ách thống trị của người Pháp,
điều mà Việt Minh đang chiến đấu điên
cuồng. Rồi trong các nhà hoạch định
chính sách của chúng ta c̣n có nhận định
sai trái cho rằng chính phủ Bảo Đại tham
nhũng và mất hết uy tín, vẫn được sự ủng
hộ mạnh mẽ trong nhân dân. Chúng ta đă
không chịu chấp nhận một sự thật là nó
đă có một quá tŕnh lịch sử nặng tính
chất cơ hội chủ nghĩa và hai mặt, và nó
đă được người Pháp dựng lên ở bên ngoài
để thủ tiêu các nguyện vọng tự quyết của
người Đông Dương và bảo vệ quyền lợi
thực dân Pháp.
Các tài liệu chính thúc ghi nhận sự tham
gia của chúng ta vào Đông Dương hoàn
toàn không có chứng cứ ǵ là chính phủ
Mỹ đă xúc tiến một sự cố gắng nào để
điều tra về thực chất của Hồ Chí Minh và
phong trào giành độc lập của ông ta. Nó
đă được bác bỏ một cách chiếu lệ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ v́ coi như là
“thiên Cộng sản” và quyết tâm bắt tay
với thực dân Pháp để xúc tiến một cuộc
chiến tranh ác liệt chống lại Việt Nam.
Chưa một lúc nào Mỹ có ư định t́m hiểu
và tranh thủ t́nh hữu nghị của nhân dân
Việt Nam, mà trái lại vẫn tiếp tục kiên
tŕ cung cấp mọi thứ cần thiết cho chính
phủ Pháp ở Đông Dương nhằm tiêu diệt
những cố gắng đă có cội rễ sâu rộng để
hoàn thành độc lập dân tộc.
Sau chót, chính sách của chúng ta đă
được xác định dựa trên cơ sở một nhận
thúc hoàn toàn không có căn cú - cho là
Pháp ủng hộ mục tiêu chống Cộng của Mỹ,
địa vị quân sự Pháp vững vàng và ngày
càng được cải thiện. Về vấn đề này chúng
ta không thể tự trách ḿnh, nhưng cũng
phải gánh phần trách nhiệm. Rốt cuộc,
trong gần 8 năm, các nhà ngoại giao và
lănh đạo quân sự của chúng ta đă tin
tưởng một cách mù quáng vào tất cả những
cái thất thường và thất vọng của người
Pháp đưa ra để giành lấy sự ủng hộ của
Mỹ cho sự nghiệp thực dân của họ, mà
không bao giờ chúng ta nghi ngờ và chỉ
muốn ra ơn. Các quan chức Mỹ đă không
chịu nh́n một cách lạnh lùng, khắt khe
về vấn đề Đông Dương; lúc nào cũng mang
kính hồng trên mắt. Ngay khi kết cuộc
vào ngày 8-5, Dulles vẫn c̣n không chịu
công nhận phần của chúng ta trong sự sụp
đổ mà chỉ muốn gán điều đó một cách
không chính đáng cho người Pháp. Đúng là
người Pháp cũng rất miễn cưỡng phải thú
nhận đă thất bại trước người Mỹ, nhưng
chúng ta cũng chẳng phải quá u mê trước
một sự thật đă hiển nhiên. Cái hố ngăn
cách rộng lớn giữa sự việc người Pháp
chuyển dần đến việc điều đ́nh ngừng bắn
và sự đ̣i hỏi của đất nước chúng ta muốn
tiếp tục cuộc chiến tranh cho đến một
“kết thúc thắng lợi” mà không có sự tham
gia của Mỹ, đă càng sâu sắc thêm trước
khi bắt đầu các cuộc bàn luận.
Khi hội nghị khai mạc, bên cạnh những
sai khác biệt nhau về động cơ, và chính
sách sai lầm của Mỹ, giữa các nước đồng
minh c̣n tồn tại nhiều mâu thuẫn sâu sắc
khác. Một trong những mâu thuẫn đó là
với người Anh. Người Pháp đă khai thác
một cách khá thông minh chương tŕnh
viện trợ của Mỹ mà không cần phải kéo
toàn bộ lực lượng Mỹ tham gia nhưng cũng
bất lực trong việc cứu nguy cho Điện
Biên Phủ. Người Anh lại bị Mỹ cho là trở
ngại chủ yếu đầu tiên cho một “hành động
thống nhất” và đă bị lên án là để cho
những quyền lợi ích kỷ của bản thân Anh
trong các vùng khác của Đông Nam Á che
mắt nên đă không đánh giá hết tầm quan
trọng chiến lược lớn lao đối với thế
giới tự do trong việc “cứu thoát” Đông
Dương.
Ngược lại, sự đoàn kết của khối Cộng sản
về cuối Hội nghị thể hiện không những
chỉ ở sự thống nhất Trung - Xô trong
việc mong muốn điều đ́nh mà c̣n ở chỗ họ
hoàn toàn có sự nhất trí với trong cả ba
phía. Sau khi Stalin chết, chính sách
của Liên Xô dưới thời Malenkov đă dịu đi
rất nhiều. Không c̣n nghi ngờ ǵ là các
vấn đề ưu tiên trong nước đă tác động
đến chế độ mới phải công bố mong muốn có
một sự giảm căng thẳng trong t́nh h́nh
quốc tế. Bắc Kinh tham gia một cách sâu
hơn vào sự nghiệp của Việt Minh, đă xúc
tiến viện trợ cho quân đội của Giáp từ
tháng 2 đến tháng 4-1954, nhưng cũng
đồng t́nh với Mátxcơva về việc mong muốn
triệu tập một cuộc hội nghị quốc tế, mà
Trung Quốc sẽ tham gia để kết thúc cuộc
chiến tranh. Những tin tức hạn chế có
giá trị cho thấy trong ba phía, chỉ
riêng có Việt Nam Dân chủ Cộng hoà coi
việc thương lượng lúc đó c̣n quá sớm và
đă chủ trương, trước khi điều đ́nh, phải
gia tăng mạnh mẽ nỗ lực quân sự. Đề nghị
đối thoại của ông Hồ với Pháp được công
bố rộng răi tháng 11-1953 nhằm tác động
đến t́nh h́nh nội bộ và dư luận chính
giới nước Pháp và làm mất tinh thần quân
đội Việt - Pháp nhiều hơn là thể hiện
thực ḷng muốn đi tới một cuộc hoà giải
thoả đáng. Những lời tuyên bố của Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà phát đi trong các
tháng sau chứng minh điều quan tâm lớn
nhất trước tiên của Việt Nam là thực
hiện được một thắng lợi nhanh chóng ở
đồng bằng sông Hồng và trên các vùng của
Lào hơn là đi vào bàn hội nghị trong khi
mà quân Pháp c̣n đang bị phân tán ra
khắp Đông Dương.
T́nh h́nh trên, nói một cách khái quát,
đă tác động đến Hội nghị Genève. Thế
mạnh và thế yếu có thể là đặc điểm riêng
của lập trường Cộng sản và lập trường
phương Tây. Tuy vậy các nhăn hiệu trên
h́nh như cũng chưa phải là hoàn toàn
thích đáng trong ảnh hưởng qua lại giữa
và trong nội bộ hai bên; điều đó lại
càng cho ta thấy rơ Hội nghị Genève
trong phải là để đưa đến một thắng lợi
của hoà b́nh.
***
Một trong những điều kiện thoả đáng đầu
tiên ở Hội nghị Genève đă đạt được trong
quá tŕnh cuộc trao đổi giữa Molotov và
Eden ngày 5-5 là khi Bộ trưởng Ngoại
giao Liên Xô tán thành nhận định của
Eden cho đây là một trong những cuộc
điều đ́nh khó khăn nhất mà ông đă gặp.
Thực tế, mới thoáng nh́n người ta thấy
ngay h́nh như có ít nhiều điều ngược đời
khi mà giai đoạn bàn về Đông Dương (8-5
- 21-7) trong điều kiện khó khăn đă
thấy, chỉ trong 12 tuần lễ đă đi đến
được một cuộc hoà giải.
Các vấn đề then chốt đă được hoăn lại
cho đến giờ phút cuối cùng trong khi
cuộc thảo luận kéo dài liên miên về
những việc tương đối ít quan trọng. Sự
tiếp xúc giữa các phái đoàn với nhau lại
bị hạn chế v́ thành kiến tư tưởng, chính
trị đối lập, làm cho một số đoàn viên
phải hoạt động như những người trung
gian hoà giải trong khi vẫn phải đại
diện cho quyền lợi quốc gia ḿnh; và các
quyết định chủ yếu cuối cùng đă đạt được
nhưng ngoài những khuôn khổ đặc biệt mà
những người tham dự hội nghị đă phải mất
một tháng để xây dựng nên.
Chester L. Cooper, một nhân viên trong
phái đoàn Mỹ, tác giả cuốn sách “Cuộc
thập tự chinh thất bại: Mỹ ở Việt Nam”,
đă cho thấy mùi vị của những sự phi lư
chi phối các quan hệ cá nhân các nhà
thương lượng:
“Ư đồ của phái đoàn khá lớn của Mỹ muốn
coi phái đoàn Trung Quốc to lớn hơn như
là không tồn tại - và ngược lại - đă làm
cho t́nh h́nh bốc thêm nhiều hương vị.
Nhiều người Trung Quốc và Mỹ đă quen
biết nhau từ trước trong những vai tṛ
khác… Bản thân tôi cũng đă có lần đứng
một ḿnh trong thang máy đối diện với
một thanh niên Trung Quốc mà tôi đă biết
khi c̣n ở trường trung học… Nhưng chẳng
ai trong chúng tôi lên tiếng, mà chỉ
nh́n nhau bắt đầu mỉm cười rồi cười. Đến
trước pḥng họp chúng tôi càng cười
ngất. Nhưng khi cửa pḥng mở, chúng tôi
vội vàng nghiêm chỉnh lại và từ lúc đó,
tránh không dám nh́n ngó tới nhau nữa”.
Cái chướng ngại quan trọng đầu tiên vấp
phải là sự kèo nài của Cộng sản cho các
lực lượng Kampuchia tự do (Khmer Issark)
và Lào tự do (Pathet Lào), do Việt Minh
lănh đạo, được quyền có ghế ngồi bên
cạnh các chính phủ Vương quốc Kampuchia
và Lào. Phải đến tận ngày 16-6, khi Chu
Ân Lai và phái đoàn của ông, báo cho
Eden biết quân đội Việt Minh sẽ rút lui
khỏi Kampuchia và Lào th́ cuộc tranh
luận về việc này mới chấm dứt.
Những sự bàn luận mất thời giờ về quyền
hạn chính thức của các “lực lượng kháng
chiến” Cộng sản ở Lào và Kampuchia cũng
khá hay ho, nhưng c̣n kém việc phải xác
định qui chế của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Tại Hội nghị Berlin, đă thoả thuận
với nhau rằng việc mời các chính phủ
khác tham gia hội nghị sẽ chỉ do các bên
tham dự hội nghị Berlin, có nghĩa là do
Tứ cường, mà không có Bắc Kinh. Nhưng,
Molotov đă xác nhận ngay từ phiên họp
toàn thể đầu tiên (ngày 8-5), Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đă được Bắc Kinh cũng
như Mátxcơva mời, đó là một hành động đă
bị Pháp và Mỹ đả phá mạnh mẽ. Song cũng
chẳng có mưu toan nào được đưa ra để gạt
bỏ sự tham dự của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Mặc dù có sự chống đối của chính
phủ Bảo Đại đ̣i hỏi phải được coi là
chính phủ duy nhất hợp pháp ở Việt Nam,
nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lại được
toàn thể nh́n nhận là một trong những
người chiến đấu chủ yếu mà sự đồng ư
ngừng bắn của họ là không thể thiếu
được, do đó đ̣i hỏi phải có họ tham gia.
Hơn thế nữa, Liên Xô đă báo cho Pháp
biết là sẽ không chấp nhận sự có mặt của
các phái đoàn các quốc gia liên kết nếu
như Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không được
chấp nhận dự Hội nghị. Giữa lúc đó, Điện
Biên Phủ thất thủ, tất cả các bên đều
đồng ư là sẽ có 9 đoàn đại biểu (không
phải là quốc gia) thảo luận về vấn đề
Đông Dương.
Cả 9 đoàn ngồi chung quanh một cái bàn
tṛn để trao đổi ư kiến trong suốt ngày
thứ hai, che lấp một thực tế là cuộc
điều đ́nh thực sự không phải ở chỗ đó.
Tất nhiên là có đề nghị, tranh luận, đệ
tŕnh… nhưng việc mặc cả thời sự đă được
dành cho cuộc thảo luận riêng, thường
vắng mặt các bên Đông Dương thân phương
Tây. Tuy vậy, các cuộc đối thoại ở
Genève cũng bị chi phối gắt gao bởi các
âm mưu, của các cường quốc lớn; những
xung đột về chính trị và tư tưởng, đặc
biệt giữa Mỹ và Trung Quốc, đă gay gắt
đến mức là lối ngoại giao phải được xúc
tiến theo một kiểu đi ṿng, do Eden và
Molotov thường xuyên hoạt động như người
trung gian và chuyển tin giữa các đại
biểu các đoàn không muốn cùng ngồi với
nhau. Một điển h́nh trong thái độ của
Mỹ, như Dulles đă nói với các nhà báo
trước khi họp phiên đầu tiên là chỉ có
một cách làm ông có thể gặp Chu Ân Lai
nếu như hai xe của họ đụng nhau.
Việt Minh đă đưa tới một phái đoàn 4
người và 3 trong số dó không xa lạ ǵ
với người Pháp. Họ do Phạm Văn Đồng dẫn
đầu, Đồng là người phát ngôn chính của
Việt Minh trước đây tại Hội nghị
Fontainebleau (tháng 7-1946) và mới được
nâng lên làm Phó Thủ tướng kiêm quyền Bộ
trưởng Ngoại giao. Người khác là Phan
Anh, Bộ trưởng Kinh tế; Tạ Quang Bửu,
Thứ trưởng Quốc pḥng; và Hoàng Văn
Hoan(15), thân Trung Quốc, Đại sứ đầu
tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại
Bắc Kinh. Cả bốn đều là những cái tên
quen thuộc trong những ngày đầu tiên của
chế độ ông Hồ tại Hà Nội.
Phải đến hạ tuần tháng 6, các đại diện
cấp cao của Pháp và Việt Minh mới gặp
nhau mặt đối mặt; các nhà lănh đạo quân
sự Việt Minh họp với đại diện của Lào và
Kampuchia; các người cầm đầu phái đoàn
Pháp và Trung Quốc trao đổi ư kiến với
nhau trong các cuộc gặp gỡ riêng. Cho
đến tháng cuối cùng của hội nghị, những
người Cộng sản và chống Cộng Việt Nam
vẫn từ chối không chịu nói chuyện với
nhau. Điều quan trọng hơn cả là phái
đoàn Mỹ theo chỉ thị nghiêm ngặt, phải
tránh các cuộc tiếp xúc với người Trung
Quốc nên chỉ dùng được những thông tin
hạng nh́ do các đại diện Anh, Pháp và
Liên Xô cung cấp; đối với Việt Minh, Mỹ
cũng phải chịu theo một thể thức như
vậy.
Vấn đề tiếp xúc cũng là
một vấn đề làm cho đoàn đại biểu Quốc
gia Việt Nam cảm thấy nhức nhối. Mặc dù
cuối cùng họ cũng đă được Pháp trao trả
hoàn toàn độc lập (4-6-1954), nhưng Việt
Nam cũng vẫn không có quyền thương lượng
về số phận của chính ḿnh. Người Pháp
rất sợ các cuộc nói chuyện riêng và tế
nhị của họ với Việt Minh bị phá vỡ; họ
tránh gặp đại diện của Bảo Đại, t́m cách
lợi dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Mỹ và
Việt Nam để chỉ báo cho phía Bảo Đại
biết sau khi đă đạt được những sự thoả
thuận với Việt Minh. Kiểu đối xử cách
biệt này của Pháp đối với đoàn Bảo Đại
kéo dài đến tận tháng 7. Mặc dù là vấn
đề phân chia ranh giới ở Việt Nam đă
được đưa ra thảo luận trong các cuộc gặp
riêng của người Pháp, Việt Minh, Trung
Quốc, Liên Xô và Mỹ, chỉ đến cuối hội
nghị, “Chính phủ” Bảo Đại mới được báo
cho biết về khả năng lớn sẽ có vấn đề
phân chia trong cuộc hoà giải, về vấn đề
này cũng như nhiều chuyện khác, người
Việt Nam không được biết ǵ cả, và đó
cũng là một điều có thể làm cho sự chống
đối của họ cứng rắn thêm và tách họ khỏi
các điều khoản kết thúc cuối cùng. Như
thế có phải chứng thực sự là “độc lập”?
Đến giữa ngày 18 và 21 tháng 7, những
người tham dự hội nghị đă gạt bỏ được
các xung đột đến mức có thể đưa ra những
điều thoả thuận được gọi chung là “Hiệp
định” Genève. Nó bao gồm các Hiệp định
quân sự riêng cho Việt Nam, Kampuchia,
và Lào để bổ sung cho nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của hội nghị là văn hồi
hoà b́nh ở Đông Dương và một Bản tuyên
bố cuối cùng nhằm thiết lập các điều
kiện để giải quyết tương lai chính trị
của toàn Đông Dương. Chỉ riêng có các
Hiệp định quân sự được kư kết(16). Bản
tuyên bố cuối cùng là những lời phát
biểu của những người tham gia hội nghị
không có đại diện nước nào kư vào đó mà
chỉ được chấp thuận thông qua biểu
quyết. Như các nhà văn Pháp La Couture
và Devillers đă nói rất đúng: “Hội nghị
Genève đă t́m ra được một h́nh thức mới
cho chung sống hoà b́nh - đó là kết quả
của sự đồng ư ngầm giữa các bên muốn
thương lượng và cũng là một h́nh thức
cam kết chính thức mới giữa các quốc gia
- một hiệp định không có kư kết”(17).
Đại cương, các Hiệp định quân sự quyết
định vấn để chấm dứt các cuộc xung đột
(một cuộc ngừng bắn) lúc đó đang tiến
triển; việc chia cắt Việt Nam dọc theo
đường giới tuyến gần vĩ tuyến 17, có một
vùng đệm phi quân sự rộng 5 cây số mỗi
bên. Việc tập kết quân đội giải phóng
Việt Nam và các lực lượng Việt Minh về
miền Bắc, và quân đội Liên hiệp Pháp về
miền Nam đường giới tuyến; việc cấm tăng
cường quân đội, tiếp tế vũ khí và dụng
cụ chiến tranh vào các vùng hai bên
đường giới quyến; việc cấm không xây
dựng căn cứ mới ở Việt Nam, Lào và cấm
thiết lập các căn cứ quân sự của nước
ngoài ở Việt Nam, Lào, Kampuchia; và
việc thiết lập một Uỷ ban Kiểm soát Quốc
tế để theo dơi và đốc thúc thi hành các
điều khoản và quyết định của Hiệp định.
Sự “thoả hiệp” chính trị trong Bản tuyên
bố cuối cùng không có kư kết chỉ đặt
nhiệm vụ với 7 trong 9 nước có liên quan
(Anh, Pháp, Kampuchia, Lào, Liên Xô,
Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà). Nước Mỹ và Quốc gia Việt Nam
(chính phủ Bảo Đại) chỉ đơn giản “ghi
nhận” Bản Tuyên bố. Thay mặt cho Mỹ,
Bedell Smith tuyên bố là chúng ta sẽ
“không kiềm chế trước sự đe doạ hoặc
việc sử dụng bạo lực để phá rối” các
Hiệp định. Đối với các vấn đề “tuyển cử
tự do ở Việt Nam”, nhận xét của Smith
chỉ giới hạn trong việc nói lên ư nghĩa
“Bản Tuyên ngôn Potomac” của Eisenllower
và Churchill cùng đưa ra ngày 29-6. Điều
đó cũng đă được nói tới trong Bản Tuyên
bố cuối cùng như sau:
“Trong trường hợp các nước hiện nay đang
c̣n bị chia cắt ngược lại với ư muốn của
họ, chúng tôi sẽ tiếp tục t́m cách thực
hiện sự thống nhất qua tuyển cử tự do,
dưới sự kiểm soát của Liên hợp quốc để
đảm bảo các cuộc tuyển cử đó được tiến
hành một cách xác đáng”.
Vấn đề chủ chốt trong Bản Tuyên bố cuối
cùng là ở chỗ tiến hành cuộc tổng tuyển
cử vào tháng 7-1956; việc rút lui quân
đội Pháp theo yêu cầu của các chính phủ
Việt Nam, Lào và Kampuchia; cấm đàn áp
trả thù; bảo vệ nhân quyền và tài sản;
tự do lựa chọn vùng ḿnh muốn cư trú; và
tôn trọng độc lập của ba quốc gia và giữ
không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau.
***
Cuộc hoà giải không vững chắc ở Genève
đă chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương
nhưng không loại bỏ được điều ám ảnh của
Pháp là phải bám giữ lấy “ḥn ngọc Viễn
Đông”. Thất bại quân sự nhục nhă trước
Việt Minh và “đám nông dân Anamít đói
khổ” là một điều vượt quá sự chịu đựng
của ḷng tự hào dân tộc Pháp. Việc mất
Bắc Kỳ, đặc biệt là vùng đồng bằng, là
cả một sự thất vọng và chán nản sâu sắc
của thực dân ở Việt Nam và những người
cánh hữu bảo thủ chính quốc Pháp. Bắc Kỳ
tượng trưng cho một thế kỷ nỗ lực tốn
kém của Pháp để cải hoá và phát triển
văn hoá kinh tế đất nước này theo phương
Tây. Chính đây là nơi nhà Ngân hàng Đông
Dương có cơ sở để bảo vệ các quyền lợi
tài chính của Pháp ở phương Đông, nơi mà
các khoa trưởng Đại học Hà Nội gieo rắc
nền văn hoá và tư tưởng chính trị Pháp,
và Thiên chúa giáo nảy nở lan tràn trong
quần chúng nông thôn. Bỏ Bắc Kỳ theo
hiệp định Genève là một sự mất mát không
thể sửa lại được. Nước Pháp bị suy yếu
đi.
Pháp c̣n phải chịu đựng một sự nhục nhă
lớn hơn nữa khi phải chấp nhận rút lui
khỏi Đông Dương v́ Mỹ, theo sự khẩn
khoản của Mỹ, mà không có được một biện
pháp gỡ sĩ diện bằng cuộc tổng tuyển cử
để xúc tiến một cuộc rút lui thứ hai,
triệt để hơn. Việc Mỹ thay thế người
Pháp ở miền Nam Việt Nam và sự thất bại
của thoả hiệp Genève được tiên đoán từ
giữa 1956, đă bác bỏ những hy vọng của
cánh tả Pháp muốn cộng tác với ông Hồ
theo một kinh nghiệm trước về chung
sống, và cũng làm cho những người ôn hoà
chán nản v́ họ đă hy vọng bảo tồn được
nền văn hoá và cứu văn được tư bản Pháp.
Điều đó cũng làm các người cánh hữu điên
đầu cho chính sách Mỹ ở Việt Nam là khả
ố. Không một ai trong các giới này, sẵn
sàng bênh vực cho Pháp ở lại mà tất cả
đều chỉ cố gắng tranh thủ được sự ủng hộ
chính trị cho ḿnh bằng cách có thái độ
gay gắt đối với Mỹ.
Trong phạm vi quốc tế, kinh nghiệm bệnh
tật của việc Pháp rút lui đă làm cho
quan hệ liên minh phương Tây, đă chẳng
vững vàng ǵ trong quá tŕnh Hội nghị
Genève, nay trở nên hết sức căng thẳng.
Việc Mỹ tách ḿnh ra khỏi Bản Tuyên bố
cuối cùng và Dulles lao một cách thiếu
suy nghĩ vào việc thành lập Tổ chức Hiệp
ước Đông Nam Á (SEATO) - gây ra một sự
chia rẽ trong khối Liên hiệp Anh, đă làm
cho cả Pháp và Anh xúc động và nghi ngờ.
Điều tồi tệ nhất làm cho họ lo ngại và
chỉ được nói đến một cách dè dặt vào
1944-1946, nay đă thành hiển nhiên: Mỹ
đang xâm chiếm Đông Nam Á.
Tuy các điều khoản trong hiệp định là
dứt khoát, nhưng tất cả trừ một trong số
các bên tham dự hội nghị đều dự đoán là
Pháp sẽ tiếp tục có mặt ở Việt Nam.
Ngoại lệ duy nhất đó là Quốc gia Việt
Nam dưới quyền một Thủ tướng mới, viên
quan lại Công giáo thân Pháp Ngô Đ́nh
Diệm. Mặc dù đă được Bảo Đại cử ra
(15-6-1954) nhưng Diệm muốn Nam Việt Nam
hoàn toàn độc lập, không phụ thuộc Pháp
mà cũng không phụ thuộc Bảo Đại. Diệm
cho rằng Pháp đă thất bại trong một cuộc
chiến tranh kéo dài, tàn phá và làm mất
tinh thần chống lại những người Cộng sản
cũng như những người Quốc gia Việt Nam,
chế độ thuộc địa đă chấm dứt, những lời
hứa hẹn độc lập trước đây của Pháp đă bị
phá vỡ. Tại sao lại tin tưởng vào những
lời phát biểu về thiện chí của Pháp
trong năm 1954? Chúng khác ǵ những điều
mà Pháp đă nói trước đây? Cộng thêm vào
sự ngờ vực đó là mối liên hệ mơ hồ của
Pháp đối với Nam Việt Nam và Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Một số người Nam Việt
Nam nh́n trước thấy Pháp sẽ tích cực
hoạt động để thoả hiệp với Việt Minh và
thực hiện sự thống nhất dưới quyền lănh
đạo của Việt Minh. Nhiều người cảm thấy
sự tiếp tục có mặt của Pháp chỉ làm hại
cho Nam Việt Nam. Diệm đă lập luận như
sau: “Muốn thuyết phục được nhân dân
Việt Nam là chính quyền này độc lập th́
cần thiết về mặt chính trị phải tỏ ra là
chống thực dân và đặc biệt là chống
Pháp”.
Địa vị của Pháp ở Việt Nam gặp rất nhiều
khó khăn. Và hơn cả Diệm, hơn cả sự tổn
thương về tâm lư do những năm tháng của
chế độ thực dân gây ra, Mỹ cũng đă làm
nảy sinh thêm khó khăn cho Pháp. Trước
hết, chính sách Mỹ hướng tới một sự cộng
tác chặt chẽ, cùng tham gia với Pháp,
thực hiện một sự liên đới bảo lănh cho
Diệm được Mỹ hỗ trợ. Chúng ta hết sức
mong muốn tăng cường Việt Nam, và yêu
cầu, đ̣i hỏi sự hợp tác của Pháp, nhưng
chúng ta đă trả giá cho họ rất ít. Chính
sách của chúng ta nhấn mạnh vào việc
phải cải tạo một cách cấp tốc sự suy
nghĩ của Pháp. Nhưng chúng ta không
thông cảm được với Pháp ở điểm này,
không biết được sẽ gây cho Pháp những ǵ
trong chính sách đối nội, đối ngoại, và
cũng chẳng rơ những nhân nhượng của Mỹ
có thể giúp ích ǵ cho Pháp không.
Mỹ đă bắt đầu xem xét lại chính sách đối
với Đông Dương ngay từ khi Hội nghị
Genève kết thúc. Công tác này được xúc
tiến cấp bách với ư nghĩ cho rằng Hội
nghị Genève là một tai hoạ cho thế giới
tự do. Các bản Hiệp định đă mang lại cho
Trung Cộng và Bắc Việt Nam một căn cứ
mới để khai thác trong vùng Đông Nam Á.
Nó đă tăng thêm uy tín của Bắc Kinh làm
cho Washington tổn thất và kinh hoàng.
Nó thu hẹp phạm vi cơ động của thế giới
tự do tại Đông Nam Á. Việc đưa lại vùng
đất đai Việt Nam trên vĩ tuyến 17 cho Hồ
Chí Minh là một sự nhắc nhở đau xót đến
sự thua trận đă mang sẹo của Pháp, sự
thua trận đầu tiên của một cường quốc
châu Âu với người châu Á - mà là những
người Cộng sản châu Á - mà cũng là một
sự thất trận Mỹ phải góp phần gánh chịu
với khoảng hơn 1,5 tỷ dollar về viện trợ
kinh tế và quân sự cung cấp cho người
Pháp và các nước Liên hiệp.
Bước đầu tiên để chống lại tai hoạ này
là việc thành lập khối SEATO. Đó cũng là
“một sáng kiến mới ở Đông Nam Á” để bảo
vệ quyền lợi Mỹ ở Viễn Đông và ổn định
“t́nh trạng hỗn loạn…” để ngăn chặn
những sự mất mát thêm cho Cộng sản qua
việc lật đổ hoặc trắng trợn xâm lược -
Hiệp ước SEATO (kư ngày 8-9-1954) đă thể
hiện cũng chẳng phải là một sáng kiến
hay là một cái khiên chống Cộng mạnh mẽ
như Dulles mong muốn - khuyết điểm phần
lớn là do Mỹ tạo ra. Khi Dulles muốn
cảnh cáo cho Cộng sản biết là xâm lược
sẽ bị chống đối th́ Hội đồng tham mưu
liên quân vẫn giữ lập trường chống lại
và từ chối không chấp nhận việc Mỹ cam
kết tham gia về mặt tài chính, quân sự
và kinh tế vào một hoạt động đơn phương
ở Viễn Đông.
Và trong những trường hợp khác, để đối
phó với “t́nh h́nh cấp bách về quân sự”,
Mỹ đă thay đổi thiện chí, chuyển từ vai
tṛ cùng hội sang vai tṛ lănh đạo chủ
chốt ở Việt Nam. Trong thời gian hội
nghị Genève đang họp, đề án về Cộng đồng
pḥng thủ châu Âu (EDC) cũng được đưa ra
nghiên cứu để xét ở Brussels nhưng cuối
cùng đă bị Pháp bác bỏ ngày 30-8-1954;
đó là một điều thất vọng lớn cho Mỹ. Một
số người có ư cho rằng sở dĩ Pháp có
thái độ bỏ rơi có thể là v́ để đền đáp
lại sự ủng hộ của Molotov - đối với
Mendès France ở Genève. Đến khi SEATO
trở thành hiện thực, Dulles trong cái
hăng hái “chặn đứng bành trướng Cộng
sản” đă đẩy SEATO tới thành lập một
tuyến ngăn chặn ở Đông Nam Á và đi tới
cải tạo Nam Việt Nam thành một pháo đài
chống Cộng chủ yếu.
Muốn thế, nhất thiết phải đảm bảo có
được sự ủng hộ trung thành của chính phủ
Nam Việt Nam. Cách thức của Mỹ là thuyết
phục Pháp đối xử với Nam Việt Nam như
một nước độc lập và có chủ quyền, thúc
đẩy Diệm tổ chức một chính phủ dân chủ,
sau đó, sẽ triệu tập Quốc hội Lập hiến
thảo ra Hiến pháp, truất ngôi Bảo Đại,
lập nền dân chủ; và yêu cầu Pháp và Mỹ
mạnh mẽ ủng hộ Diệm. T́nh h́nh đó, cộng
với một nền độc lập hoàn toàn và sự ủng
hộ và khuyến khích của Pháp - Mỹ để tiến
hành cải cách rộng răi, cuối cùng sẽ dẫn
đến một Nam Việt Nam mạnh và chống Cộng.
Và, ít ra th́ Mỹ cũng đă tưởng như vậy.
Quyết tâm của Mỹ ủng hộ Diệm đă được
thực hiện với sự nhận thức rằng Pháp rất
không phấn khởi trong việc hỗ trợ cho
Diệm. Lúc đó là lúc nước Pháp đang bị
rối rắm về sự chia rẽ chính trị nội bộ,
và gặp khó khăn nghiêm trọng về vấn đề
Algeria (nổ ra chiến tranh công khai với
Pháp tháng 11-1954) nên cũng rất miễn
cưỡng trong việc giúp đỡ cho Quốc gia
Việt Nam. Sự chống đối Diệm trong những
người theo thuyết “chung sống hoà b́nh”
của Mendès France cũng rất mạnh. J.R.
Leygues, Cố vấn Liên hiệp Pháp, được coi
như là một nhân viên trong “nhóm tham
mưu” về Đông Dương của Mendès France, đă
nói với Đại sứ Dillon là những vụ tiếp
xúc của Pháp ở Hà Nội cho Paris thấy Nam
Việt Nam đă suy vi và biện pháp duy nhất
có thể cứu văn được ǵ đó là phải chịu
chơi với Việt Minh và lôi kéo họ khỏi sự
ràng buộc của Cộng sản với hy vọng tạo
ra được một Việt Minh theo kiểu Tito có
thể cộng tác với Pháp và thậm chí có khả
năng tham gia Khối Liên hiệp Pháp. R.
Leygues cho biết Pháp đă tŕ hoăn không
đáp lại những sự mong muốn của Mỹ về
việc ủng hộ chính phủ ở Sài G̣n, chẳng
qua là chỉ nhằm để moi thêm tiền cho đội
quân viễn chinh Pháp và gán cho Mỹ trách
nhiệm về việc có thể để mất Nam Việt
Nam.
Những ư nghĩa này đă làm náo động các
nhà làm chính sách của chúng ta và ngày
23-10-1954, Tổng thống Eisenhower đă gửi
cho Diệm một bức thư, báo Mỹ sẽ cung cấp
việc trợ kinh tế và quân sự trực tiếp
cho ông, chính phủ ông và quân đội của
ông.
Việc chuyển nguồn tài chính hỗ trợ to
lớn của chúng ta từ hệ thống của Pháp
sang cho người Việt Nam đă làm cho Pháp
suy vi và ảm đạm, và làm cho người Pháp
phải lớn tiếng kêu ca về vai tṛ mở rộng
của Mỹ. Nước Pháp đă chẳng chịu chấp
nhận bị loại trừ ra ŕa một cách vui vẻ,
nên qua mùa thu 1954, quan hệ Mỹ Pháp đă
xấu đi thậm tệ. Chúng ta đă bắn rơi Chim
hải âu đang lượn ṿng trên đầu.
Đại sứ Bonnet ở
Washington đă trách Dulles là bức thư
của Tổng thống đă quá nới lỏng cho Diệm
mà không bắt như là điều kiện tiên
quyết, trước hết phải lập được một chính
phủ mạnh và ổn định. Ông nói thêm, bức
thư có thể là một sự vi phạm cuộc đ́nh
chiến và Việt Minh sẽ lợi dụng điều đó.
Đến khi đại sứ Dillon nêu ra vấn đề ở Bộ
Ngoại giao Pháp là Pháp đă chẳng có ǵ
tạo ra là ủng hộ Diệm như cần thiết phải
có, Bộ trưởng các nước Liên hiệp, Guy la
Chambre liền nổi nóng. Ông nói, đây
không phải chỉ là một sự xuyên tạc, mà
là một lời phỉ báng trực tiếp đối với
tướng Ély (lúc dó là Cao uỷ Pháp ở Việt
Nam), Chính phủ ở Paris, và danh dự của
nước Pháp. Ông La Chambre nói, cá nhân
ông tin rằng Diệm đang đưa Nam Việt Nam
tới thảm hoạ nhưng ông vẫn ủng hộ Diệm:
“Chúng tôi muốn chịu thất bại ở Việt Nam
cùng với người Mỹ hơn là thắng ở đó mà
không có họ… Chúng tôi sẽ ủng hộ Diệm,
dù cho biết rằng Diệm đang đi tới thất
bại, và qua đó ǵn giữ sự đoàn kết Pháp
- Mỹ hơn là gây chuyện với ai đó có thể
giữ Việt Nam lại trong thế giới tự do
nếu điều đó có nghĩa là phải phá vỡ mối
đoàn kết Pháp - Mỹ”.
Nhưng một lần nữa, các ư kiến về quân sự
lại được đề cao. Hội đồng Tham mưu Liên
quân Mỹ trước đây phản đối việc chúng ta
đảm nhiệm huấn luyện cho Quân đội Quốc
gia Việt Nam th́ nay lại bằng ḷng gửi
một phái đoàn huấn luyện tới Phái đoàn
viện trợ Quân sự Mỹ (MAAG) ở Sài G̣n và
nhấn mạnh vào điểm phải bảo vệ chống lại
sự can thiệp của Pháp. Khi quân viễn
chinh Pháp (khoảng 150.000 người) c̣n ở
Đông Dương, th́ việc triển khai các
chương tŕnh huấn luyện đ̣i hỏi việc gửi
người đến Việt Nam đều phải theo một thể
thức ngoại giao. Do dó, tướng J. Lauton
Collins đă được lựa chọn và được phong
cấp đại sứ.
Có lẽ theo sự gợi ư của Mendès France,
Coliins tỏ ra dè dặt trước hết về khả
năng của Diệm để ổn định Chính phủ và
ông đă đề xuất (16-12-1954) việc gọi Bảo
Đại từ nước ngoài trở về. Nếu điều đó
không được chấp nhận, ông sẽ đặt vấn đề
Mỹ rút lui khỏi Việt Nam. Pháp cho đó là
một biện pháp kiên quyết và yêu cầu
Collins cùng với Cao uỷ Ély nghiên cứu
vấn đề. Dulles giữ một quan điểm ngược
lại, cho Diệm là nhà lănh đạo duy nhất
thích đáng đă được biết, và nói rơ rằng
Quốc hội chắc sẽ không cấp ngân khoản
cho Việt Nam nếu không có Diệm. Sự đối
đầu Pháp - Mỹ lại sôi lên, nhưng cuối
cùng Collins đă đồng ư với Dulles, Mike
Mansffled, Kennedy, Hồng y Spellman và
các người khác, là không ai có thể thay
Diệm. Và, có thể là để làm yên ḷng
người Pháp, Collins cho biết Mỹ tiếp tục
viện trợ quân sự cho Pháp. Collins đă
thanh minh v́ Việt Nam “có thể bị tràn
ngập bởi một cuộc tấn công của quân thù
trước khi Hiệp ước Manila (SEATO) có thể
hành động”. Và để khuyến khích người
Pháp duy tŕ một quân đội có “hiệu lực”,
Collins đưa ra một khoản viện trợ tài
chính ít nhất là 100 triệu dollar cho
tới tháng 12-1955. Tướng Ély đồng ư.
Trong thời gian đó th́ t́nh h́nh Việt
Nam tỏ ra ủng hộ những người như Hội
đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đă tiếp
tục có nhiều dè dặt đối với tương lai
của Ngô Đ́nh Diệm và Chính phủ của ông.
Diệm đă khéo léo chống đỡ, vượt qua được
các mưu toan đảo chính của các nhà lănh
đạo quân sự và đă thành công trong việc
duy tŕ dược một cuộc hoà b́nh chẳng hay
ho ǵ với các phái vơ trang ở Nam Kỳ.
Nhưng tương lai của ông vẫn c̣n là điều
đáng ngờ nhất. Cùng lúc đó, phái đoàn
Pháp ở Hà Nội cũng cố gắng bảo toàn các
quyền lợi kinh tế và văn hoá Pháp ở Bắc
Việt Nam. Nhưng vang vọng của 1945 lại
nổi lên. Các nhà lănh đạo chính trị Pháp
ở Paris đă nói một cách hùng hồn về một
cuộc hợp tác ngừng bắn với Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đang trở thành kiểu mẫu cho
các mối quan hệ Đông - Tây. Một thông
tin gây băn khoăn lo lắng cho Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ và những ai trong và ngoài
chính quyền cùng quan điểm với ông ta.
Sau hết, đi đôi với sự phát triển của
t́nh h́nh trên, Hoàng đế Bảo Đại, đă
tích cực t́m cách thay Diệm để trả đũa
những chiến dịch chính trị mạt sát của
Diệm chống lại ông ta.
Tất cả những sự căng thẳng này qui tụ
vào hai vấn đề trung tâm trong quan hệ
giữa Mỹ và Pháp. Vấn đề thứ nhất là việc
huấn luyện cho quân đội Việt Nam sẽ do
ai đảm nhận và làm như thế nào. Vấn đề
thứ hai, gay go hơn, là xem Diệm có c̣n
ở lại đứng đầu Chính phủ hay phải thay
thế bằng một lănh tụ Quốc gia khác có
cảm t́nh với Bảo Đại và Pháp hơn. Vấn đề
thứ nhất đă được giải quyết tương đối
nhanh chóng. Tướng Collins đă dạt được
một sự thoả thuận với tướng Ély, qua đó
tuy Paris c̣n có nhiều điều lo ngại,
nhưng Pháp đă đồng ư trao việc huấn
luyện quân đội Việt Nam cho Mỹ và rút
các cán bộ của Pháp về. Ngày 12-2-1955,
Mỹ đảm nhiệm việc huấn luyện quân đội
Việt Nam và Pháp cũng bắt đầu rút bỏ.
Cuộc tranh luận chính trị về Diệm đă
được giải quyết một cách không dễ dàng.
Diệm đă làm cho vấn đề gay cấn thêm bằng
cách tăng cường chỉ trích thô bạo người
Pháp và Bảo Đại. Về phần ḿnh, Mỹ rất
nhạy cảm với những tác động trong nước
Pháp của chủ nghĩa chống Cộng chiến đấu
của Diệm - những tác động thường do cánh
tả Pháp điều khiển - và sự thù hằn dấy
lên do những lời tuyên bố của Mỹ, miêu
tả Mỹ là người bạn duy nhất của chủ
nghĩa Quốc gia Việt Nam. Nhưng Mỹ đă
không tiếp thu những lời cảnh cáo của
Pháp cho Diệm dứt khoát bất lực trong
việc thống nhất những người Quốc gia
Việt Nam. Lời khuyên của Pháp đối với
Mỹ, được Collins ủng hộ, cho rằng v́ thế
cần phải thay Diệm. Suốt mùa đông và
xuân 1955, Collins, Bộ Ngoại giao nói
chung, tỏ ra sẵn sàng xem xét một cách
thuận lợi những gợi ư muốn có một lănh
đạo thay thế được đặt vào chính quyền.
Nhưng đă chẳng có ai có đủ đức tính cần
thiết (chống Pháp, chống Bảo Đại) để
cạnh tranh được với Diệm.
Nhưng ở đây Mỹ và Pháp đă bị lôi cuốn
vào một loạt sự kiện. Tướng Nguyễn Văn
Hinh, người của Pháp, Tham mưu trưởng
quân đội Việt Nam, có nguyện vọng lên
làm Thủ tướng, đă âm mưu lật đổ Diệm,
thân Công giáo. Nhờ vào sự giúp đỡ của
các phe phái chống Thiên Chúa giáo (Cao
Đài, Hoà Hảo, và B́nh Xuyên), Hinh đă
tiến hành nhiều vụ âm mưu chống Diệm,
nhưng không thành. Đến tháng 9, Diệm
khám phá một vụ mới, cho bắt một số
người của Hinh, chuyển viên tướng này
khỏi cơ quan chỉ huy và ra lệnh cho ông
phải ra nước ngoài. Nhưng Hinh đă không
chịu đi và tiếp tục các cuộc vận động
chống lại Chính phủ. Kế hoạch cho một
cuộc đảo chính vào tháng 10-1954 đă bị
huỷ bỏ v́ người ta đă cho Hinh biết rằng
nêu có nổi loạn, lập tức viện trợ Mỹ sẽ
bị cắt đứt. Một cuộc khác dự định làm
vào ngày 26-10 đă bị đại tá E.G.
Lansdale (sau là thiếu tướng), người của
CIA chúng ta, khôn khéo đánh lạc hướng.
Cuối cùng, vào tháng 11-1954, Bảo Đại bị
Mỹ và Pháp ép dùng danh nghĩa của Diệm,
mời Hinh sang Cannes (Pháp) và ngày
19-11, tướng Hinh đă rời Việt Nam đi
Pháp.
Lúc đó các giáo phái hùa nhau trực tiếp
đấu lại quyền lực của Diệm nhưng ông ta
đă đáp lại mạnh mẽ bằng bạo lực. Khó
khăn lắm mới thực hiện được một cuộc
ngừng bắn sau vụ xung đột đầu tiên vào
tháng 3-1955 và giữa t́nh h́nh đang căng
thẳng lên, vào tháng 4, Mỹ, Pháp và Bảo
Đại, tất cả đă phải tích cực t́m cách
thực hiện một sự thay đổi trong Chính
phủ Việt Nam. Ngày 28-4, chống lại lời
khuyên nhủ của Mỹ, Pháp và cả của chính
nội các của ông ta, Diệm lại cho tấn
công các phe phái. Khi B́nh Xuyên chống
cự lại ở Sài G̣n, Diệm đă đưa quân đội
Việt Nam đến đàn áp. Quân đội của Diệm
đă giành thắng lợi và cùng lúc đó, Ngô
Đ́nh Nhu, em của Diệm, đă tập hợp một uỷ
ban gồm các nhân vật Quốc gia quyết định
hạ bệ Bảo Đại và chuyển mọi quyền lực
quân sự và dân sự sang tay Diệm.
Được thắng lợi của Diệm khích lệ, Mỹ
tuyên bố một cách không mập mờ ủng hộ
của ông ta và chống lại Bảo Đại. T́nh
h́nh làm cho Pháp hết sức khó khăn.
Chính phủ Pháp lại tin rằng “Uỷ ban Cách
mạng” của Nhu chịu ảnh hưởng của Việt
Minh và cảm thấy một cách mạnh mẽ cuộc
vận động của chính phủ Việt Nam chống
lại sự có mặt của người Pháp lại tái
diễn trở lại.
Tháng 5-1955, Pháp, Mỹ và Anh họp ở
Paris để thảo luận vấn đề pḥng thủ châu
Âu, nhưng Pháp đă nhanh chóng đưa ra vấn
đề Việt Nam thành vấn đề chính trong
chương tŕnh nghị sự. Pháp cho rằng bằng
cách ủng hộ Diệm, Mỹ đă buộc Pháp phải
rút toàn bộ khỏi Việt Nam. Bộ trưởng
Ngoại giao Pháp, Edgar Faure nhận định
Diệm “không những là bất lực mà c̣n điên
dại,… nhưng Pháp sẽ không c̣n phải chia
sẻ nguy hiểm với Diệm”. Dulles đáp lại,
Mỹ cũng biết rơ những nhược điểm của
Diệm nhưng cho rằng những thành công của
ông vừa qua chứng tỏ ông ta có những đức
tính có thể đền bù lại được. Rồi Dulles
thêm “Việt Nam không đáng giá cho một sự
tranh chấp với Pháp” và nói Mỹ có thể
rút lui c̣n hơn là làm mất đoàn kết với
đồng minh.
Nhưng đă chẳng có quyết đinh ǵ ngay
được. Trong khi nghỉ họp, Dulles đă được
Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân
khuyến cáo rằng Diệm sẽ là biện pháp có
hứa hẹn nhất để giành được các mục tiêu
của Mỹ và nếu như việc rút lui quân viễn
chinh Pháp là một biện pháp “cuối cùng
phải làm”, th́ nên tránh một cuộc rút
lui vội vă để “không thể gây ra một t́nh
h́nh ngày càng không ổn định và bấp
bênh” và có thể làm mất Nam Việt Nam cho
Cộng sản. Dulles liền đề nghị với người
Pháp để họ tiếp tục ủng hộ Diệm cho đến
khi bầu xong được Quốc hội. Anh cũng tỏ
ra ủng hộ Diệm và do đó h́nh như đă làm
cho Faure lung lay nên ông đă chấp nhận
đề nghị của Dulles. Cuộc hội nghị tay ba
đă kết thúc trong một bầu không khí
thống nhất, nhưng thực chất bên trong
rất khác nhau: cộng tác Mỹ - Pháp đă hết
thời và từ nay về sau Mỹ sẽ hành động
một cách độc lập với Pháp ở Việt Nam.
Được Mỹ nâng đỡ, Diệm đă chối từ việc
thảo luận với miền Bắc Việt Nam về vấn
đề tổng tuyển cử khi tới thời hạn đă
định vào tháng 7-1955. Lợi dụng được sự
thắng thế về quân sự chống các phe phái,
ông ta đă xúc tiến việc củng cố địa vị
chính trị ở Nam Việt Nam. Vào tháng 10,
Diệm giành được một thắng lợi nổi tiếng
trong cuộc thăm ḍ dân ư; tuy đó chỉ là
một thắng lợi nông cạn v́ người đi bỏ
phiếu chỉ được chọn một trong hai người:
Diệm và Bảo Đại. Thế chính trị của Diệm
càng lớn th́ quan hệ giữa ông ta và Pháp
càng tồi tệ đi. Tháng 12-1955, Diệm đột
nhiên xoá bỏ các thoả hiệp kinh tế và
tài chính đang được thi hành với Pháp và
yêu cầu Pháp phải bác bỏ Hiệp định
Genève và cắt đứt quan hệ với Hà Nội.
Sau đó, Diệm cho rút đại diện của Nam
Việt Nam khỏi Liên hiệp Pháp. Nhưng cũng
phải thấy rằng thế lực chính trị của
Diệm không nhất thiết phản ảnh một khối
quần chúng cử tri rộng răi. Vẫn c̣n
nhiều bất măn trong một số giới và đâu
đâu cũng hờ hững thờ ơ.
Ngày 2-1-1956, tổng tuyển cử ở Pháp đă
dẫn đến một chính phủ của đảng viên Xă
hội Guy Mollet với 1/3 thành viên là
Cộng sản hay tự xưng là trung lập. Đầu
tháng ba, Bộ trưởng Ngoại giao của
Mollet là Pineau, trong bài diễn văn đọc
tại Hội Nhà báo Anh-Mỹ ở Paris đă tuyên
bố nước Pháp sẽ tích cực đi theo một
chính sách đóng vai tṛ bắc cầu giữa
Đông và Tây, và như thế là không có sự
thống nhất về đường lối chính trị giữa
Mỹ, Anh và Pháp nữa. Ông đă đặc biệt chú
ư nêu lên trường hợp chính sách Trung
Đông của Anh và sự ủng hộ của Mỹ đối với
Diệm là trái với quyền lợi Pháp và c̣n
lên án hai cường quốc trên là đă kích
động thế giới Ả Rập làm thiệt hại cho
Pháp ở Bắc Phi. Mấy hôm sau, tại hội
nghị khối SEATO họp tại Karachi, Pineau
tuyên bố kết thúc “thời đại xâm lược”,
và kêu gọi thực hiện một chính sách
“chung sống”.
Tiếp theo là hành động, Pháp thoả thuận
với Diệm (22-3-1956) cho rút lui toàn bộ
quân viễn chinh Pháp và Bộ chỉ huy tối
cao Pháp ở Sài G̣n cũng giải thể ngày
26-4. Đến ngày đă được ấn định cho tổng
tuyển cử, Pháp không c̣n quân đội ở Việt
Nam. Và ngày định cho ciệc thực hiện các
điều khoản chính trị của cuộc hoà giải,
tháng 7-1956, lại trùng hợp với ngày nổ
ra cuộc khủng hoảng Suez.
Như trong bài thơ “Người thuỷ thủ già”
của Coleridge, nước Mỹ đă bị bỏ lại một
ḿnh trên con tàu Việt Nam chao đảo với
Chim hải âu bị thương bay lượn quanh
trên mũi.
***
THÁNG TƯ 1980
Ba
thập kỷ đă trôi qua kể từ khi các sự
kiện Đông Dương khởi động. Trong những
năm tháng đó, thế giới đă được chứng
kiến một thời kỳ buồn thảm nhất trong
lịch sử nước Mỹ. Bị trừng phạt và làm
nhục v́ câu chuyện phiêu lưu sai đường
lạc lối này nên h́nh ảnh Chim hải âu vẫn
c̣n có mặt măi măi trên sân khấu chính
trị của Mỹ - một sân khấu bị bao trùm
bởi sự lạc quan ấu trĩ về sự thống trị
thế giới của chủ nghĩa tư bản mà không
ǵ hơn là sẽ chỉ cô lập nước Mỹ và tồi
tệ hơn nữa sẽ đẩy nhân loại nhanh đến
một Thế chiến mới. Thật khó mà nghĩ được
rằng sau tất cả những ǵ đă xảy ra trước
đây, những kỷ niệm đau buồn của chúng ta
ở Viễn Đông (Trung Quốc) và Đông Nam Á
(Việt Nam, Kampuchia), các nhà lănh đạo
đất nước chúng ta vẫn tiếp tục đáp lại
những vang vọng của quá khứ mà quên mất
những hậu quả không thể tránh khỏi. Và
trong buổi ban đầu của thập kỷ mới này,
chúng ta lại sắp sửa lao vào cuộc đua
giống như trước nhưng c̣n nguy hiểm hơn.
Nhiều sự so sánh thực quá rơ ràng. Cuộc
khủng hoảng ở Iran mà nhiều người cho là
Mỹ đă nhúng tay vào, và việc Liên Xô xâm
nhập vào Afghanistan được coi giống như
một sản phẩm của cuộc nổi dậy của Iran,
làm cho người ta nghĩ tới một sự dập
khuôn lại chiến lược dài hạn của chúng
ta, một chiến lược trong đó đă một lần
nữa mưu toan cung cấp một chiếc dù pḥng
thủ cho một vùng mà ở đó sự tranh giành
địa phương và xung đột tôn giáo là những
trở ngại quan trọng nhất cho bất kỳ ảnh
hưởng của phương Tây nào. Thực ra đó chỉ
là một sự sắp xếp lại “học thuyết
Truman” cũ, cái kế hoạch 1947 nhằm đẩy
lùi làn sóng Cộng sản ở Thổ và Hy Lạp.
Cái được gọi là chủ nghĩa Cater, với
tham vọng lớn hơn nhiều so với các kiểu
cũ, hy vọng đối phó không những đối với
“mối de doạ của chủ nghĩa bành trướng
Xôviết” cổ điển mà c̣n cả với những vấn
đề địa phương phức tạp có liên quan đến
việc các tập đoàn Mỹ kiểm soát các vùng
sản xuất dầu lửa. Giống như trong thời
Truman - Acheson, học thuyết mới cũng
vẫn dựa vào sự cần thiết phải “bảo vệ
quyền lợi Mỹ”. Duy chỉ có lần này, khu
vực đă thay đổi từ Đông Nam sang Tây Nam
châu Á, cũng như các vùng Trung Đông,
vịnh Pecxic, và Nam Á như bây giờ thường
gọi. Cũng giống như các học thuyết cũ
trước đây, vấn đề vẫn là một “thống nhất
hành động” bây giờ được kêu là “hợp tác
địa phương” với những đồng minh bướng
bỉnh, thiết lập các căn cứ quân sự trên
những vùng không ổn định về mặt chính
trị; đưa tới một lực lượng quân sự đầy
đủ về người để bảo vệ các căn cứ đó, và
khả năng có thể xung đột công khai.
Trong khi trước đây Mỹ phải đương đầu
với một vấn đề độc nhất là “ngăn chặn
chủ nghĩa Cộng sản” ở Đông Nam Á, th́
ngày nay các vấn đề ở Tây Nam Á lại
nhiều hơn và khác nhau hơn, rất khó giải
quyết hơn và vô cùng giả dối trong kết
cuộc. Bên cạnh mối đe doạ chiến lược của
Xôviết, các vấn đề như sự bế tắc A Rập -
Israel, cuộc cạnh tranh Ấn Độ -
Pakistan, việc lôi kéo các nước sản xuất
dầu vào khối thân phương Tây chống lại
ảnh hưởng của Xôviết, và nguy cơ tối hậu
của một cuộc đụng độ toàn diện với Liên
Xô, đều là những trở ngại không thể vượt
qua được để giành thắng lợi của chủ
nghĩa Cater mới.
Dưới ánh sáng kinh nghiệm mới đây thật
đă quá rơ là quyền lợi của Mỹ có thể
được phục vụ một cách tốt nhất bằng cách
rút lui khỏi sự lănh đạo thế giới và
điều chỉnh lại vai tṛ của ḿnh trong
công việc quốc tế. Đă lâu Mỹ không c̣n
giữ được ưu thế tuyệt đối về quân sự và
kinh tế nữa. Tây Âu và Nhật cũng không
cần đến sự giúp đỡ của Mỹ nữa và tỏ ra
muốn t́m kiếm một sự độc lập thích nghi
với các nước khối Hiệp ước Vácsava và
Liên Xô. Các quan hệ kinh tế, quân sự cũ
không c̣n gắn bó với các mục tiêu thế
giới của Mỹ nữa. Bằng cách từ bỏ chủ
nghĩa biệt lập, Mỹ có thể sẽ làm tốt hơn
việc tập trung sức lực sử dụng các nguồn
tài nguyên của đất nước phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng trong nước và chỉ giao
dịch buôn bán với các nước khác trên cơ
sở có đi có lại, không nhằm chỉ v́ lợi
ích chiến lược. Sau hết, Mỹ sẽ phấn đấu
để thực hiện được sự cân bằng chủ yếu về
quân sự mà không phải là giành ưu thế
hơn Liên Xô. Đó chính là bài học mà
chúng ta phải rút ra từ lịch sử quá khứ
của chúng ta.
Chú thích
(1)
Một quan chức quan liêu lộng quyền ở Nga
(2) Fourth Point
(3) Bản Hiệp định sơ bộ kư ngày 7-12-1947
(4) Cuộc chiến bẩn thỉu -
tiếng Pháp
(5) Phái đoàn Viện trợ quân sự Mỹ
(6) Trận đấu không mang
lại kết quả
(7) B. Fall, “Con đường không vui”
(8) B. Fall, “Hai Việt Nam”
(9) ư chỉ chỗ yếu nhất -
ND
(10) sau này là Tổng thống Pháp
(11) B. Fall, “Hai Việt Nam”
(12) Shaplen, “Cuộc cách mạng thất bại”
(13) tức Vi Quốc Thanh,
về sau được Trung Quốc phong hàm Thượng
tướng năm 1955
(14) Cuộc hành quân Chim Ó
(15) Đại sứ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Trung Quốc (1951-1958). Bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị và các chức vụ khác năm 1978 và đă bỏ trốn sang Bắc Kinh ngày 3-7-1978 trên đường đi Berlin.
(16) Kư tại Genève lúc 4
giờ ngày 20-7-1954, do thiếu tướng Henri
Delteil thay mặt Tổng tư lệnh quân viễn
chinh Pháp tại Đông Dương và Tạ Quang
Bửu, Thứ trưởng Quốc pḥng Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà.
(17) La Couture và Devillers, “Kết thúc
một cuộc chiến tranh: Đông Dương 1954”
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures