US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 30
Quân phiệt và bọn đầu cơ chính trị
NHỮNG CON
TẮC KÈ TRUNG QUỐC
C̣n 15
phút bay nữa th́ tới Hà Nội, khi phi cơ
bay dọc theo đường thuộc địa số 2, phi
công gọi chúng tôi phải chú ư đến một
ḍng người rất dài đang hỗn độn kéo về
phía Nam. Máy bay hạ xuống thấp hơn và
ḍng người đi hiện rơ ra trước mắt. Đó
là một mớ lẫn lộn nào
xe quân sự,
xe đạp, xe ḅ kéo xen lẫn vào những đám
đông người đi bộ chập chờn, khó tả.
Nhiều người gánh gồng hoặc đeo những bó
tướng trên lưng, lùa đi hoặc dắt
theo súc vật
chăn nuôi. Chúng tôi c̣n thấy cả lồng
gà, ngỗng, các đàn lợn, trâu và nhiều
con vật khác được kéo
theo đi trên
đường… Đó chính là đội quân chiếm đóng
của Tưởng Giới Thạch…
Máy bay chúng tôi hạ xuống Gia Lâm vào
sáng chủ nhật 9-9. Hôm đó cũng là ngày
đánh dấu buổi đầu của một chương mới
trong lịch sử Cách mạng tháng Tám, ngày
mà đám quân của Lư Hán đến Hà Nội, không
bị chống đối nhưng cũng chẳng được hoan
nghênh. Đó là những
người Trung Quốc đại diện cho các nước
Đồng minh châu Âu chiến thắng, tuy chưa
phải thật sự là những nước lớn.
Nhưng trước mắt
người Việt, họ chỉ là những tên đầy tớ
của thế giới phương Tây được phái đến để
ḱm giữ Việt Nam trong ṿng nô lệ phục
dịch cho quyền lợi của ngoại quốc.
Ba mươi năm sau, trong hồi kư “Những năm
tháng không bao giờ quên”, Vơ Nguyên
Giáp vẫn c̣n nhắc đến mối ác cảm của
nhân dân Việt Nam đối với quân đội Lư
Hán lúc đó…
Ở sân bay, tôi không thấy người Trung
Quốc mà chỉ thấy nhân viên phục vụ người
Nhật. Khi qua cầu Doumer (Long Biên), xe
tôi bắt gặp một đơn vị hậu tập của Sư
đoàn 93 Vân Nam Trung Quốc. Một sĩ quan,
nhận ra lá cờ Mỹ nhỏ ở đầu
xe, đă ra
lệnh cho lính dạt vào bên phải, nhanh
nhẹn chào và vẫy tay. Ở đầu hàng quân,
một số phân đội rất có kỷ luật đă chuyển
từ đi thường sang đi nghiêm
theo nhịp của
đội quân nhạc. V́ đă quá quen với các
đơn vị quân đội vô kỷ luật ở Trung Quốc,
tôi khá xúc động trước sự xuất hiện của
các đơn vị đặc biệt này.
Họ mang quân phục
màu xanh chững chạc và vác các vũ khí Mỹ
của họ một cách hănh diện.
Suốt ngày hôm đó,
quân đội Trung Quốc tiếp tục đến.
Và đến chiều tối, đoàn
xe tải và xe
Jeep của sĩ quan và nhân viên tham mưu
làm một cuộc diễu binh lớn để vào thành
phố. Lính Nhật đứng ở trong các ô cửa và
cố gắng không để mọi người dễ thấy trong
khi người Việt Nam nh́n một cách thèm
muốn những vũ khí và
xe cộ Mỹ ở trong tay của người
Trung Hoa. Người
Việt Nam như những người ṭ ṃ đứng
ngoài xem, dáng tự hào mà không kiêu
căng, tỏ ra quan tâm và chưa có ǵ chống
đối hoặc dễ bảo.
C̣n người Âu th́
vắng bóng.
MỘT SỐ NGƯỜI PHÁP TỰ DO
Khuya hôm đó, có nhiều người
Pháp “tự do” không ở trong số thân cận
Sainteny đă tới nhà Gauthier, mang đến
cho tôi những tin tức từ Sài G̣n và về
t́nh h́nh trong “Thành Mordant”, tên họ
gọi một cách châm biếm phong trào kháng
chiến của Pháp ở Hà Nội.
Hai người trong số
họ thuộc Đảng Xă hội Pháp, một người là
hội viên tích cực của phong trào Cộng
hoà B́nh dân Thiên Chúa giáo.
Họ từ Alger đến từ
tháng 1-1945 để công tác cho trường đại
học Hà Nội, sau khi đă tham dự vào cuộc
khởi nghĩa Paris (8-1944) trong lực
lượng kháng chiến nội địa Pháp.
Hoạt động chống Nhật cùng với số sinh
viên ở Việt Nam Học xá nhưng họ kín đáo
nên đă thoát chết sau cú 9-3 và đă cộng
tác với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và Tạ
Quang Bửu trong việc tổ chức sinh viên
Hà Nội thời kỳ Cách mạng tháng Tám.
Tôi và họ vẫn thường
gặp nhau để trao đổi tin tức và nhận xét
t́nh h́nh.
Chiều hôm đó, họ tỏ
rất quan tâm đến sự có mặt “kinh khủng”
của người Trung Quốc trong thành phố.
Họ sợ rất có thể nổ ra cuộc xung đột
tai hại giữa
người Trung Quốc và Việt Nam cường các
lực lượng của Pháp là c̣n cần thiết và
nên làm, ngay cả khi xảy ra rối loạn.
và sẽ là một
cái cớ cho những người theo De Gaulle
vin vào đó để dùng quân đội của Leclerc
can thiệp. Tôi phát biểu là sau khi đă
được thấy những đơn vị rất có kỷ luật
của Trung Quốc, tôi không tin là việc
tăng
Ông Gouin(1),
đảng viên Xă hội chuyển câu chuyện sang
nói về De Gaulle và nước Pháp, cho rằng
trong lúc này, mặc dầu đă mất Syrie(2)
nhưng Đế quốc Pháp vẫn c̣n nguyên vẹn.
Ở Pháp, có thể trừ
De Gaulle ra th́ chẳng ai quan tâm nhiều
đến những ǵ đang xảy ra ở Đông Dương.
Theo Gouin, đó cũng là một điều dễ hiểu.
Mùa đông 1944-1945, đời sống ở Pháp đă
trở nên cực kỳ khó khăn… Nội chính hoàn
toàn hỗn loạn và De Gaulle, một lănh tụ
tầm cỡ quốc tế đă phải chịu một đ̣n
tai hại không
thể tưởng được v́ đă bị gạt ra ngoài
cuộc hội nghị nguyên thủ các nước ở
Yalta và Potsdam. Điều đó là một thử
thách nghiêm trọng đối với toàn bộ
“chính sách cao siêu” của De Gaulle và
ông đă không chấp nhận điều sỉ nhục đó.
Người ta cũng đă phải làm một ít ǵ đó
để phục hồi lại cho nước Pháp vị trí
xứng đáng trong hàng
ngũ các cường quốc lớn thế giới.
Những người khác gật đầu tán thành và
ông bạn Lebrun(3),
phái Cộng hoà B́nh dân của chúng ta đă
nêu lên vai tṛ cứu thế mà “Charles vĩ
đại” (De Gaulle) đă tự gán cho ḿnh.
Lebrun nhắc lại việc De Gaulle đă rất
đau ḷng khi người Mỹ v́ lư do này khác
đă khước từ đề nghị của ông được tham
gia vào chiến tranh Thái B́nh Dương. Ông
cảm thấy sâu sắc rằng đó là một điểm
danh dự của nước Pháp v́ đă tỏ ra có đủ
tư cách để yêu cầu được dự phần trong
hoạt động ở Viễn Đông. Theo Lebrun, De
Gaulle quan niệm cú 9-3 của Nhật ở Đông
Dương lại là một điều may mắn hơn là
tai hoạ cho
Pháp.
Vài năm sau, khi đọc hồi kư của De
Gaulle(4), tôi đă nhớ lại những lời b́nh
luận này của Lebrun…
Các vị khách Pháp đă chất vấn tại sao
người Mỹ chúng tôi đă rộng tay để cho
Tưởng chiếm đóng bắc Đông Dương?
Tại sao chúng tôi
lại chia cắt nước này ra làm hai?
Phải chăng Mỹ và Anh
đă có mưu đồ chính trị, kinh tế ở Đông
Nam Á và muốn gạt nước Pháp ra khỏi kế
hoạch của họ? Họ có cảm t́nh với
các hoài băo của người Việt Nam nhưng họ
cũng c̣n là người Pháp và tin rằng Pháp
có đủ khả năng thực hiện một nền công
bằng xă hội. Một khi mà khối liên minh
Xă hội - Thiên Chúa giáo - Cộng sản lên
cầm quyền ở Pháp th́ Việt Nam sẽ được
công nhận như là một nước chị em trong
cộng đồng các quốc gia nói tiếng Pháp.
Tôi tự nhiên cảm thấy họ có cái ǵ dó
rất giống với Sainteny và các bạn
theo De
Gaulle của ông ta.
Họ tỏ ra rất phẫn nộ và nói là chắc tôi
đă biết rơ hơn. Tôi trả lời là đă
nghe quá nhiều những lời xuyên tạc cho
rằng Mỹ có trách nhiệm trong việc chia
cắt Đông Dương và nói rộng ra, với hàm ư
là Mỹ có những động cơ đen tối về kinh
tế. Gouin đồng ư với
tôi và hỏi cho biết sự thật là như thế
nào? Ông thấy
khó mà bảo vệ được lập trường của Đồng
minh nếu như không nắm được thực chất
của vấn đề.
Tôi đă tŕnh bày một cách tỉ mỉ quyết
định, trước khi có hội nghị Potsdam, của
tham mưu trưởng Liên quân Mỹ nhằm điều
chỉnh lại các giới tuyến chỉ huy ở Đông
Nam Á và Tây Nam Thái B́nh Dương và giải
thích sự cần thiết phải tập trung lực
lượng Mỹ vào cuộc tấn công chủ yếu vào
chính nước Nhật. Chính v́ thế Mỹ không
cần thiết và không có lợi lộc ǵ trong
việc tiếp tục ngăn chặn hoặc đánh đuổi
Nhật trong các vùng đất đai c̣n lại của
thuộc địa Anh, Hà Lan, Pháp ở Đông Nam
Á. Và sau các cuộc thảo luận trong giới
lănh đạo quân sự Đồng minh, th́ chỉ đi
đến một quyết định hoàn toàn quân sự;
không có một cái ǵ khác. Sau này, người
ta cũng có thể nói rằng trong khi người
Mỹ chỉ chú tâm đến vấn đề quân sự th́
người Anh lại lo lắng nhiều hơn đến việc
bảo vệ quyền lợi thực dân của ḿnh và họ
vui mừng trước thái độ “chống thực dân”
của người Mỹ.
Việc lên án Mỹ lợi dụng vấn đề điều
chỉnh giới tuyến cho những mục đích kinh
tế đă được bộ máy tuyên truyền của
Sainteny thổi phồng lên bằng cách tung
tin có một sự thoả luận “bí mật” ở Yalta
nhằm “cướp đoạt” địa vị chính đáng của
Pháp ở châu Á và quyết định ở Potsdam
chỉ là một trong những quyết định cốt để
xoa dịu Tưởng, đền bù cho việc bị mất
cho người Nga những đất đai ở Trung
Quốc. Mặc dù tôi đă làm hết sức ḿnh để
giải thích chống lại những điều xuyên
tạc nói trên nhưng những điều đó vẫn
được các cây bút Pháp, Anh và Mỹ(5) liên
tục nhắc đi nhắc lại đến mức một độc giả
không chuyên về lịch sử vẫn có thể chấp
nhận đó là nhũng sự thật.
Nhưng thực ra chúng
không đúng.
MỘT ĐỘI QUÂN XÂM LƯỢC
Suốt đêm hôm đó, quân Lư Hán
tràn vào thành phố, ầm ầm tiếng xe cộ đi
lại, tiếng máy nổ, tiếng hô các hiệu
lệnh… Nhưng chỉ sáng hôm sau, chúng tôi
đă chứng kiến một cảnh tượng trái ngược
hẳn. “Quân đội” Trung Quốc đă biến chất
đi một cách ghê gớm!
Đội quân tinh nhuệ
hôm qua đă trở thành đội quân đi cướp
chiếm đất. Ra phố, tôi chỉ thấy
một cảnh tượng lộn xộn không thể tả được
cùng với những người Trung Quốc
lang thang
không mục đích…
… Không c̣n thấy bóng các đơn vị có kỷ
luật mang quân phục màu xanh, tiến bước
theo tiếng
quân nhạc đâu nữa.
Họ đă được phân tán vào trong góc Thành
trên băi cỏ trước dinh Toàn quyền, trong
các trại cũ của Pháp và Việt. Chỉ
c̣n thấy các đơn vị dân binh Trung Quốc
quần áo rách rưới lộn xộn, đi dép cao su
làm từ các lốp xe Jeep Mỹ và mang đủ các
loại vũ khí linh tinh Mỹ, Pháp, Anh và
Nhật.
Cái đống nhân mạng vô thừa nhận này
chính là đội quân Vân Nam của Lư Hán; nó
giống như một đám quân tụt hậu hỗn độn
đang rút lui chứ không phải là một đội
quân chiến thắng đến để giải giáp và
tiếp nhận sự đầu hàng của quân thù.
Người Việt Nam, trong đó có Vơ Nguyên
Giáp, vẫn nghe ngóng, đón chờ và sẵn
sàng trước đoàn người di trú kỳ dị này…(6).
Những ngày tiếp theo
là những ngày tôi hiểu sâu thêm về phong
cách cư xử phương Đông. Những người
Trung Quốc mới tới, lác đác có một số cố
vấn Mỹ đi cùng, đă tạo ra bầu không khí
vừa có sự tha thiết vô tư, vừa gợi sự ṭ
ṃ cá nhân lẫn với một sự sợ sệt cho mọi
người. Sự thân thiện
giữa người Việt Nam và những người mới
tới chỉ ở mức tối thiểu. Chỉ có
sự giao tiếp theo
phép xă giao cần thiết và nhất thời và
ngôn ngữ khác nhau đă làm trở ngại cho
mọi sự tiếp xúc rộng răi giữa hai nhóm
người. Nhưng những đồ Mỹ sản xuất, xe
cộ, điện đài và vũ khí súng ống ở trong
tay người Trung Quốc chỉ làm tăng thêm
sự ṭ ṃ của những người Việt Nam táo
bạo. Các nhà buôn đă thay đổi mặt hàng
ngay từ ban đêm. Chỉ những ǵ ế ẩm mới
được trưng ra và với giá đă được tăng
lên rất cao. Các cửa
và cửa sổ hướng ra thành phố đều bị đóng
khoá chặt. Ngay giữa ban ngày,
không có người phụ nữ Việt Nam và Âu nào
dám đi ra phố mà không có nam giới đi
cùng…
Nhưng cộng đồng
người Hoa ở Hà Nội là một ngoại lệ.
Ban đầu họ xô ra đường để đón chào các
đồng hương của họ. Nhưng sau khi đoàn
hậu quân đă tới th́ sự phấn khởi của dân
địa phương cũng tan biến đi. Hơn nữa, v́
lo cho tương lai, các nhà lănh đạo cộng
đồng người Hoa ở đây muốn được có an
ninh nên đă yêu cầu phái đoàn chúng tôi
chuyển cho Lư Hán bức điện sau đây:
“Hoa kiều ở Hà Nội xin gửi đến ngài
những lời chào mừng nhiệt liệt và sự
kính trọng sâu sắc nhất trước sự nghiệp
sáng láng của ngài trong cuộc chiến
thắng cuối cùng và chuẩn bị đón mừng một
cách nồng nhiệt nhất ngày ngài tới Đông
Dương”.
Vào thời kỳ đó, dân
chúng Hoa kiều ở toàn Đông Dương có
khoảng 50 vạn người. Tuyệt đại bộ
phận họ tập trung tại Chợ Lớn, thành phố
toàn người Hoa sát với Sài G̣n và tại
Pnom Penh, thủ đô Kampuchia.
Một số đáng kể sống
ở Sài G̣n, Hải Pḥng và Hà Nội.
Họ giữ một vai tṛ
có ưu thế trong đời sống kinh tế của đất
nước, kiểm soát rộng răi về tài chính
các ngành thương mại và buôn bán.
Những người Hoa ở Việt Nam hợp thành một
tập đoàn dân tộc cần cù có những mối
quan hệ gia đ́nh và chính trị khá chặt
chẽ với Trung Quốc, nơi mà họ bày tỏ
ḷng trung thành duy nhất với đất nước
của họ…
Hoa kiều ở đây không
sống riêng biệt mà quây quần với nhau
trong những khu vực của lớp người trung
gian được gọi là các “bang”. Hiệp
ước Nam Kinh 1935 đă coi những Hoa kiều
này như là những “người ngoại quốc có
quy chế ưu đăi”, phải tuân theo pháp
luật của Pháp và đóng thuế cho người đại
diện cho mỗi “bang”. Theo quy định đó
th́ họ chẳng có ǵ phải ngại đối với
người Việt cũng như người Âu hay Nhật.
Những người Hoa kiều này hy vọng Lư Hán,
với toàn quyền cai trị nhân danh Tưởng,
sẽ giải thoát họ khỏi sự thống trị của
người Pháp, khỏi cái mà họ coi như một
quy chế tốn kém và phụ thuộc. Và họ đă
được tưởng lệ thích đáng: Chỉ hai ngày
sau khi tới Hà Nội, Lư Hán đă chỉ thị
cho Chính phủ Lâm thời Việt Nam băi bỏ
“chế độ các bang” trong việc đối xử với
cộng đồng người Hoa ở Đông Dương. Đó
cũng là một trong nhiều đ̣n đánh vào uy
tín của Pháp trong quá tŕnh Trung Quốc
chiếm đóng và cũng là một bước mới trong
việc làm suy yếu cái trật tự cũ đă già
nua.
Hai ngày sau khi trở lại Hà Nội, tôi
được ông A. Evard(7)
cho biết thêm một đ̣n mới giáng vào uy
tín của Pháp. Người Trung Quốc đă không
kèn không trống tống Sainteny và nhóm
thân cận ông ta ra khỏi nơi độc nhất c̣n
lại của sự vĩ
đại của nước Pháp, để chiếm dinh Toàn
quyền dành cho Lư Hán sắp tới. Trong
chiến tranh, thường kẻ chiến thắng bao
giờ cũng có quyền đóng tại các toà nhà
nguy nga và có ư nghĩa chính trị nhất
trong vùng đất đai
bị chiếm. Nhưng ở
đây người Trung Quốc chỉ muốn phô trương
thế trội của ḿnh, chứ không phải là chủ
quyền, được tính toán để gây xúc động
cho người Pháp cũng như người Việt Nam.
Nhưng đó cũng là một cách
để làm nhục người Pháp, hạ thấp địa vị
quan trọng của họ và ác nghiệt đặt họ
trong vai tṛ của nhũng người ngoài cuộc
được phép đứng xem hơn là những kẻ chiến
thắng.
Ngày 11-9, Sainteny đă
được chuyển đến đóng ở một biệt thự nhỏ
sát nách với Nhà Ngân hàng Đông Dương.
Theo Evard, công việc đó đă nhờ được một
nhân viên của SLFEO, đại tá Cavalin( 8
), và người bạn J. Laurent(9) thu xếp.
Tôi cho rằng
Sainteny cũng c̣n muốn đề xuất ra yêu
sách về Nhà Ngân hàng cho người Pháp.
Như nhiều người địa
phương đă nói một cách dí dỏm rằng nếu
Sainteny không thể bảo vệ được danh dự
của nước Pháp tại dinh Toàn quyền th́
chí ít ông ta cũng làm một cái ǵ đó để
giữ được ngân khố cho nước Pháp chứ.
Nhà Ngân hàng Đông Dương đă giữ một vai
tṛ khá quan trọng suốt thời kỳ cộng tác
trong chiến tranh của Pháp và Nhật.
Người Nhật đă trao trả toàn bộ đất nước
này cho Chính phủ ông Hồ, trừ Nhà Ngân
hàng mà họ vẫn c̣n ngoan cố giữ chặt lấy
toà nhà cũng như các tài sản bên trong.
Người Pháp cho Ngân hàng là một vật sở
hữu độc quyền của họ và khi thấy người
Nhật vào Việt Nam không đề ra yêu sách
ǵ đối với Nhà Ngân hàng th́ họ chỉ có
thể coi đó như là đă thuộc về họ. Nhưng
bất kỳ một yêu sách nào hay một sự tịch
thu tài sản
nào của Ngân hàng bởi người Trung Quốc
th́ nhất định cũng sẽ bị cả người Pháp
lẫn người Việt phản đối. Tôi không rơ
người Việt Nam đă có cách nào để mong
nắm lấy quyền kiểm soát Ngân hàng Đông
Dương không, nhưng rơ ràng lúc đó, họ
đang có lợi thế để mà đưa ra một yêu
sách ít nhất cũng để giữ được bản thân
ngôi nhà đó. Sự việc
đă tới. Sau ngày Sainteny dọn đến
trụ sở mới của họ, ông Saurent đă gửi
cho tôi một bản công bố chính thức của
Ngân hàng, ngắn gọn và gay gắt, do giám
đốc Ngân hàng kư: “Kể từ ngày 12-9-1945,
Chính phủ Lâm thời vỡ nợ”.
Tôi đă hỏi xem Ngân
hàng có c̣n tài sản nào không và được
trả lời là c̣n, nhưng không thuộc tài
khoản của Chính phủ.
TIÊU VĂN: NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA
QUỐC DÂN ĐẢNG
Ngay sau khi bộ phận tiền
trạm của Trung Quốc đến Hà Nội th́ tướng
Tiêu Văn, một bộ hạ tin cậy của Trương
Phát Khuê cũng tới. Tiêu mang ba chức
vụ: phó tư lệnh của Lư Hán, Tư lệnh tập
đoàn quân 62 Quảng Tây và Thủ trưởng
Pḥng chính trị Ban Công tác hải
ngoại(10). Nhưng lúc
đó ông ta c̣n có một nhiệm vụ khác nữa,
nhiệm vụ bí mật bảo vệ các quyền lợi của
Trương ở phía Nam biên giới Trung Quốc.
Cuối tháng 9, tôi được Tiêu Văn trực
tiếp cho biết nếu không có sự chỉ đạo
tích cực của Trương th́ Trung Quốc không
thể hy vọng thiết lập được những quan hệ
thân thiện với Việt Nam sau thời kỳ
chiến tranh. Theo ư Tiêu Văn và ông ta
vẫn giữ ư kiến này cho đến cuối 1947,
việc chọn Lư Hán để chỉ huy cuộc chiếm
đóng là một việc tồi tệ nhất. Tiêu cho
Lư Hán không biết ǵ về “vấn đề” ở Việt
Nam, có nhăn quan rất hạn chế, hẹp ḥi
và chỉ huy những đội quân hoàn toàn
không thích đáng với nhiệm vụ chiếm
đóng. Trái lại, Trương,
theo quan
điểm của Tiêu, đă từ lâu có công xây
dựng nền móng cho một sự thân thiện Việt
- Hoa có hiệu lực mà trong đó Tiêu đă
giúp “đạt được ít nhiều thắng lợi”. Việc
thay đổi đột ngột nhằm phái Trương và
đội quân tinh nhuệ nhất của ông ta tới
Quảng Đông thay v́ cho Hà Nội có nguy cơ
làm mất Đông Dương vào
tay người
Pháp và theo ư Tiêu, đó là một quyết
định tai hại.
Tiêu Văn đến Hà Nội trong thời gian tôi
đi Côn Minh và đă có nhiều lần gặp gỡ
không chính thức với ông Hồ. Ông Hồ đă
cung cấp cho người cai ngục và che chở
cũ của ḿnh một biệt thự đẹp không xa
phái đoàn OSS Mỹ, cùng nhiều tiện nghi
khác và chắc chắn rằng họ đă nối lại
nhũng quan hệ cũ.
Sáng ngày 10-9, tôi được Chu Văn Tấn,
lúc đó là Bộ trưởng Quốc pḥng, mời tới
dự một buổi gặp gơ do ông Hồ tổ chức để
chào mừng tướng Tiêu Văn. Sau bữa tiệc,
ông Hồ mở đầu bằng một lời phát biểu
hoan nghênh ngắn bằng tiếng Trung Quốc,
rồi giới thiệu Tấn.
Hướng về phía Tiêu Văn, Bộ trưởng Tấn
nói tiếng Việt ca ngợi sự hợp tác và
giúp đỡ của các lực lượng Đồng minh
trong việc giải giáp quân Nhật và duy
tŕ trật tự công cộng. Tấn đề nghị cho
đặt liên lạc ngay giữa Bộ chỉ huy Trung
Quốc và “Lực lượng vơ trang Việt Nam”(11)
để cho vai tṛ mỗi nhóc được phục vụ một
cách có hiệu quả hơn.
(Tôi chỉ biết ngạc
nhiên không hiểu Tấn đào đâu ra được
“Lực lượng vơ trang Việt Nam”).
Tấn tỏ biểu hiện hào phóng trong việc
“phân phối” lương thực và đồ tiếp tế mà
họ có, nhưng lại chua xót nhận xét là
các lănh đạo Việt Nam chẳng c̣n ǵ trong
tay. Sau ít lời nhận xét
chung, Tấn
mời Tiêu Văn phát biểu.
Tiêu chậm răi đứng lên,
tay đặt vào
đốc gươm chỉ huy bên sườn, một cử chỉ
của người chúa tể mà người Việt không bỏ
qua, và mỉm cười một cách hạ cố.
Bằng tiếng Trung Quốc, Tiêu cám ơn ông
Hồ về sự hiếu khách và thông hiểu lẫn
nhau và cảm tạ đối với đề nghị giúp đỡ
của Tấn. Tiêu nói rơ một cách thẳng
thừng rằng người Trung Quốc đă được
trang bị rất tốt để hoàn thành nhiệm vụ
của họ trong việc đối xử với người Nhật.
Về vấn đề an ninh công cộng, ông nói,
trong lúc này người Trung Quốc dựa vào
“cảnh sát địa phương”; rồi sau đó sẽ tuỳ
tướng Lư Hán quyết định. Đối với vấn đề
lương thực và nói đóng quân cho “Quân
đội Đồng minh”, ông tuyên bố Bộ chỉ huy
Trung Quốc sẽ tiếp tế những thứ cần
thiết từ nền kinh tế địa phương theo một
chế độ trưng thu lương thực và dịch vụ,
và tất nhiên là các chủ nhân và người
bán hàng được chính phủ Trung Quốc trả
tiền theo giá thị trường thoả thuận và
hợp lư(12).
Tiêu cũng gợi ư trực tiếp với ông Hồ một
cách rất ngoại giao là trong buổi đầu
này nếu ở mỗi Bộ trong Chính phủ của ông
Hồ mà đặt một sĩ quan chuyên môn người
Trung Quốc để làm liên lạc th́ thật là
thích đáng; v́ như thế người Việt thông
hiểu hơn những nhu cầu và cách làm của
người Trung Quốc. Khi những nhận xét của
Tiêu được dịch sang tiếng Việt th́ những
nụ cười thân thiện tắt ngấm ở ông Hồ và
các cộng sự của ông, nhưng họ chẳng bộc
lộ ra có ǵ là bị bất ngờ và thất vọng.
Mặt họ trở nên lạnh
lùng và không khí im lặng chống đối bao
trùm. Giọng
của Tiêu gay gắt và rất đáng ngại.
Nghe những lời tuyên
bố chính thức của Trung Quốc âm vang
trong gian pḥng lớn Bắc Bộ phủ, ai cũng
phải kinh ngạc.
Bất chợt, Tiêu làm như một diễn viên và
nhà ngoại giao bậc thầy, đă xua tan bầu
không khí căng thẳng bằng một câu nói
đùa ǵ đó mà tôi không hiểu nhưng rơ
ràng là được mọi người tán thưởng.
Ông ta lớn tiếng
cười khi đánh giá cao sự đón tiếp “nồng
nhiệt” của người Việt NamNam chống phát
xít. đối
với người Trung Quốc mới tới. Ông ta hứa
hẹn một cách hùng hồn rằng chính phủ
Trung Quốc sẽ không quên sự đối xử thân
mật của người Việt Nam đối với những
người đồng bào ở nước ngoài của ông
trong 6 tháng bị Nhật hành hạ vừa qua.
Tôi thực sự không hiểu nổi lời hứa đó
như thế nào, theo tôi th́ chẳng có sự ưu
ái nào đă bị mất đi giữa những người
Trung Quốc “thoả hiệp” (với Nhật) và
những người Việt
Viên tướng đă kết thúc lời phát biểu
bằng việc ca tụng “t́nh hữu nghị bất
diệt”…, “cùng chung một mục đích…và kiên
tŕ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
bên ngoài” và vân vân… Tôi có cảm giác
mạnh mẽ rằng Tiêu đă cố gắng để có một
giọng nói nhân đức mặc dù vẫn rất quan
cách, ít ra th́ cũng cho đến khi người
Trung Quốc đă sẵn sàng để điều đ́nh
những vấn đề quan trọng hơn.
Ông Hồ hướng cho những người tham gia
cuộc họp hoan hô và sau đó đă mời Tiêu
sang pḥng bên cạnh để nói chuyện riêng.
Liệu, Giám, Tấn và Giáp ở lại uống nước
và chuyện tṛ, qua phiên dịch, với các
sĩ quan đă cùng tới với Tiêu cho đến khi
Tiêu và ông Hồ trở lại, miệng mỉm cười.
Mấy phút sau, người Trung Quốc cáo lui
sau khi đă chào theo
kiểu quân sự, ôm, bắt tay thân mật… Một
công tác ngoại giao
theo kiểu Á Đông tuyệt vời.
Tôi cũng đă định xin
rút lui, nhưng ông Hồ nói tôi ở lại uống
trà với ông nên chúng tôi đă ngồi lại
trên các ghế bành thoải mái ngay trong
pḥng mà ông Hồ và Tiêu đă nói chuyện.
Ông Hồ hỏi tôi có
biết rơ Tiêu Văn không.
Tôi nói đây là lần
đầu tôi gặp Tiêu nhưng đă được nghe nói
về vai tṛ của ông ta trong các công tác
giữa người Hoa và Việt ở Trung Quốc.
Ông cười và trách
tôi một cách rất tự nhiên, “ông có thể
nói cho tôi biết; nhưng thực tế, tôi
cũng đă rơ ông ta mới được cử làm Trưởng
Ban Mật vụ Chính trị ở Hà Nội đấy”.
Tôi không biết và
cũng đă không nghĩ tới điều đó.
Tôi có biết vai tṛ
của Tiêu là một sĩ quan chính trị, nhưng
tôi không mong muốn cho ông ta dính líu
vào các mưu đồ của người Trung Quốc.
Tôi cũng chẳng muốn
tiết lộ cho ông Hồ hay về việc OSS đă
làm ǵ để giúp ông thoát khỏi sự cầm tù
của Trương Phát Khuê năm 1944 và việc
Tiêu có liên quan đến vấn đề này.
Nhưng về phía ông Hồ, ông cũng không đặc
biệt muốn ám chỉ đến sự hợp tác trước
đây của ông với Tiêu, tuy ông đă kể lại
những cố gắng của ông nhằm hoà hợp các
người quốc gia Việt Nam hải ngoại ở Liễu
Châu năm 1943 và sự ủng hộ của Tiêu đối
với ông lúc đó.
Ông Hồ nói riêng với
tôi là ông vừa mới yêu cầu Tiêu đứng làm
trung gian môi giới giữa Quốc dân Đảng
(Trung Quốc) và Việt Nam. Nghĩ
cho kỹ, theo
ông nói, th́ đó cũng không phải là một
hành động khôn ngoan. Ông đă hy vọng
rằng Tưởng, đi theo chính sách đă được
công bố “không có tham vọng đất đai ở
Việt Nam” sẽ sử dụng ảnh hưởng của ḿnh
đối với các cường quốc Đồng minh để ngăn
chặn các nhà quân sự Pháp không cho lật
đổ Chính phủ Lâm thời. Tiêu dă gợi ư
ngay là Quốc dân đảng và các nước Đồng
minh sẽ có thái độ thân thiện hơn đối
với chế độ của ông Hồ nếu ông chịu mở
rộng cơ sở chính trị của Chính phủ bằng
cách chẳng hạn như để Đồng minh Hội tham
gia. Đi nước cờ cuối cùng, ông Hồ đă nói
cho Tiêu biết là ông đă có ư định “dân
chủ hoá” Chính phủ, nhưng cũng cần có
thời gian, có thể phải sau cuộc bầu cử
tháng Chạp(13).
Ngoài mặt, Tiêu tỏ ra thoả măn với câu
trả lời của ông Hồ; ông ta khẳng định
lại chính sách láng giềng tốt của Tưởng
và hân hoan mong muốn sẽ có những cuộc
thương lượng hai bên cùng có lợi, trong
đó Trung Quốc sẽ coi Việt Nam là một
nước được hưởng chế độ ưu đăi về thương
mại và sử dụng các bến cảng ở Đông Nam
Á.
Mặc dù sau buổi họp riêng, họ đều cười,
nhưng tôi cho là ông Hồ đă không đạt
được điểm nào đối với Tiêu Văn. Trước
khi chúng tôi ra về, ông Hồ phàn nàn là
t́nh h́nh sẽ rất khó khăn và có chiều
hướng hoàn toàn xấu. Nhưng ông Hồ nói
cuối cùng th́ Việt Nam cũng sẽ được giải
phóng khỏi người Pháp, Trung Quốc hay
bất kỳ nước ngoài nào khác. Ông nói
tiếp: “Tôi biết Tiêu Văn đă cho đưa hai
tên Việt Nam bù nh́n về cùng để tổ chức
một chính phủ do Quốc dân đảng đỡ đầu
vào lúc thuận tiện - nhưng Tiêu đă không
nói trắng điều đó ra với tôi.
Những tên này cũng
không có đến cả lương tri là phải ẩn đi
cho khuất mắt.
Nếu họ bị một số
thanh niên chúng tôi nhận được mặt, th́
tôi cũng biết sẽ xảy ra chuyện ǵ đây”.
Trong một phút linh
cảm trước, ông Hồ đă nhận xét là sẽ có
đổ máu trong tương lai.
Nếu người Trung Quốc
thực sự chống đối lại nền độc lập của
Việt Nam, nhân dân ông nhất định sẽ
kháng cự lại bằng vũ khí.
Nếu bọn bù nh́n của
Trung Quốc đánh vào Việt Minh, nhất định
sẽ có nội chiến.
Và nếu sự đe doạ của
Pháp trở thành hiện thực th́ sẽ có cuộc
chiến tranh toàn diện.
Bất kỳ t́nh huống
nào đă nói trên xảy ra th́ cũng đều sẽ
được “phán quyết bằng máu”.
Ông Hồ trông già đi.
Sau khi đă nói lên được t́nh trạng căng
thẳng trong cuộc đấu với Tiêu Văn, ông
Hồ xin lỗi về tâm trạng bi quan của ḿnh
và ở đầu cầu thang, ông cho biết là sự
có mặt của quân đội Trung Quốc trên đất
đai Tổ quốc ông đă làm ông phiền muộn.
LƯ HÁN VÀ BỌN PHÁ HOẠI
Lư Hán đến sân bay Gia Lâm
chiều ngày 14-9(14) mà không hề có báo
trước. Sau khi được
cơ quan Tiêu Văn điện thoại cho biết,
tôi đến thẳng ngay dinh Toàn quyền để
dón ông ta. Khoảng 4 giờ 30,
tướng Lư Hán đến trong một đoàn
xe nhỏ và tôi
là một trong những người được gặp chào
ông đầu tiên. Tướng Tiêu Văn giới thiệu
tôi là trưởng phái đoàn OSS và đă nhă
nhặn nói thêm là đơn vị chúng tôi đă
giúp đỡ ông ta nhiều trong việc giao
dịch với người Nhật và Chính phủ Việt
Nam. Lư Hán cảm ơn tôi và hỏi tôi nếu
cần ông ta có thể làm việc ǵ th́ cứ nói
và ông mong rằng sẽ tiếp tục công tác
chặt chẽ với phái đoàn chúng tôi v.v…
Trái với dự đoán
chung của mọi người cho rằng Lư
Hán tới sẽ được đón tiếp một cách long
trọng ầm ĩ, ông ta và Bộ tham mưu của
ông vẫn đóng kín đáo trong dinh Toàn
quyền. Do đó đă lan
tràn nhiều tin đồn đại về việc sắp sửa
thi hành thiết quân luật, thực hiện chế
độ quân quản, các đội hành quyết, lệnh
giới nghiêm v.v…
Nhưng chẳng có ǵ như thế đă xảy ra
trong thời kỳ Trung Quốc chiếm đóng.
Tuy vậy, cuộc chiếm đóng vẫn là một thời
kỳ tai hại,
gây chấn thương cho nhân dân Việt Nam
trong lịch sử hiện đại của họ.
Tác động của sự chiếm đóng của độ 5 vạn
quân(15) đối
với một nền kinh tế đă lung lay đă đe
doạ ngay cuộc sống của mỗi người Việt
Nam, khi họ vẫn chưa được hồi phục sau
trận đói ghê gớm mùa đông trước.
Nhưng sự cướp đoạt
một cách có tổ chức và gần như là công
khai các tài nguyên đất nước bởi bọn
quân phiệt vô lương tâm và bộ hạ của họ,
lại c̣n nguy hại hơn nhiều.
C̣n các đề nghị liên
tiếp của tôi với các nhà chức trách Đồng
minh nhắc họ đảm nhận cung cấp lương
thực và tiếp tế cho quân chiếm đóng th́
chẳng được ai chú ư đến.
Và số này đă đến,
chân đất, bụng đói và quyết tâm sống nhờ
vào của cải ở địa phương. Họ lấy
ngay thứ ǵ họ cần hay họ muốn, bất kể
thứ đó là của người Pháp, người Việt hay
của người Hoa địa phương, không kể giàu
nay nghèo. Các chỉ huy của họ hiện đại
hơn nhưng cũng tham tàn và
ăn sống nuốt
tươi mạnh hơn. Đồng quan
kim, giấy bạc
đă bị lạm phát một cách hết sức bừa băi
và ở Côn Minh người ta đă phải tiêu hàng
bó để mua một phẩm vật thường ngày, nay
đă trở thành một công cụ để họ bóc lột
người Việt về phương diện tài chính.
Ngay trong buổi thảo luận về việc quân
đội Tưởng tiến xuống phía nam, Giáp đă
cho biết ở Hải Pḥng, quân Trung Quốc đă
cưỡng ép các nhà buôn địa phương khi họ
từ chối không nhận tiền quan kim v́ đă
được định theo một giá hối đoái không
thực tế. Ở Tuyên Quang, các nhà chức
trách quân sự Trung Quốc đă quy định (ít
ra cũng là tạm thời) giá 1 quan
kim ăn 20
đồng bạc Đông Dương. Tại Hà Nội, các nhà
buôn Hoa kiều lại đổi 1 quan kim ăn 1
đồng bạc. Giáp rất bực bội và nói cho
tôi biết lập trường của Chính phủ ông là
không chấp nhận bất kỳ đề nghị về giá cả
hối đoái nào cho đến khi có một “phái
đoàn Mỹ tới”, và lúc đó có thể lấy đồng
dollar làm trung gian để điều chỉnh các
sự chênh lệch trong giá hối đoái các
loại tiền tệ.
Kết quả cuộc gặp đầu tiên
của ông Hồ với Lư Hán ở Hà Nội ngày 16-9
đă loại trừ hẳn hy vọng của ông Hồ muốn
đặt giá hối đoái tiền tệ đối với đồng
dollara Mỹ. Khi Lư Hán “gợi ư” với ông
Hồ là giá hối đoái được ổn định ở mức 14
quan kim ăn 1 đồng bạc, ông Hồ liền yêu
cầu nên để vấn đề này lại cho tới khi
thành lập một uỷ ban tài chính.
Nhưng chỉ mấy ngày
sau, không có thảo luận ǵ thêm, Lư Hán
ấn định một cách chính thức và một chiều
giá hối đoái là 14 ăn 1. Tỷ lệ
này đối với đồng quan
kim mất giá,
cùng với các thủ đoạn tài chính khác, đă
đặt khuôn khổ cho một hoạt động chợ đen
đồ sộ thực sự đă tàn phá nền kinh tế
Việt Nam.
Với những đồng quan kim mà ở Trung Quốc
phải có hàng tấn mới có giá trị, các sĩ
quan Trung Quốc ở Việt Nam có những quan
hệ kinh doanh riêng, đă kết hợp chặt chẽ
với con buôn, chủ nhà băng, và thầu
khoán để mua bằng một giá rẻ mạt mọi
công cuộc kinh doanh có lợi mà họ thấy ở
Việt Nam. Số này hoạt động không chỉ
trong cơ cấu tổ chức quân sự Trung Quốc
mà c̣n qua hệ thống của Đoàn Cố vấn Việt
Nam(16) do
Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh đỡ đầu. Các
công ty và trust(17) nhanh chóng được
thành lập để nắm quyền làm chủ hoặc kiểm
soát các lợi ích ở Việt Nam hoặc các đồn
điền của chủ Pháp, các trang trại, dinh
thự, nhà máy, hầm mỏ, bến cảng và phương
tiện giao thông vận tải… Nhà ở tư nhân,
nhà hát, tiệm nhảy, khách sạn, cửa hàng
và các nhân viên phục vụ đều được các
ông chủ trả theo
một giá rất thấp. Nếu họ phản đối hoặc
dám bác bỏ đề nghị của các hiệp hội th́
giới quân sự đă có cách để cưỡng ép họ…
… Trở lại cuộc gặp
gỡ đầu tiên giữa ông Hồ và Lư Hán, nhiều
vấn đề cực kỳ khó khăn khác đă được nêu
lên. Vấn đề
tu sửa các đường giao thông từ biên giới
tới Hà Nội đă được đặt ra. Trong
những ngày Trung Quốc chiếm đóng đầu
tiên ở các tỉnh biên giới, Việt Minh đă
đáp lại sự hống hách và coi thường Chính
phủ Lâm thời Việt Nam của họ bằng cách
cắt một số đường liên lạc điện tín điện
thoại và phá hoại các đoạn đường dẫn tới
Hà Nội, Hải Pḥng.
Lư Hán không rơ nguyên nhân t́nh trạng
phá hoại đó và “gợi ư” người Việt Nam
phải tiến hành sửa chữa ngay để quân đội
của ông ta kịp thời chuyển tới.
Ông Hồ nói lại là cần phải có thời gian
nếu như quân đội Trung Quốc không đảm
nhận lấy việc này, nhưng Lư Hán kiên
quyết không chịu nên ông Hồ phải đồng ư
nhận cung cấp nhân công nếu như được
Trung Quốc giúp đỡ về vật liệu.
Lư Hán chỉ đáp là
ông ta sẽ xem xét.
V́ không biết rơ thực lực của Việt Minh
và chưa tin chắc ở khả năng của quân đội
trong việc đụng đầu với ông Hồ, nên Lư
Hán lúc đầu c̣n điều tra, sau đó yêu cầu
ông Hồ cho biết rơ lực lượng và tổ chức
quân đội Việt Nam lúc đó.
Một lần nữa ông Hồ
lại bác bỏ, cho rằng vấn đề đặt ra không
thích đáng v́ Việt Nam không phải bị
chiếm đóng mà “trong thực tế là một bộ
phận của lực lượng Đồng minh”. Lư
Hán cứ khăng khăng đ̣i và cuối cùng ông
Hồ đă phải chấp nhận, nhưng ông đă nghĩ
ra được một cuộc rút lui khá hay… Về sau
ông đă giải thích cho tôi biết ông đă
phải đi theo
một đường lối tránh mọi khiêu khích và
đối đầu có thể dẫn đến xung đột với quân
Trung Quốc suốt trong thời gian Tưởng
c̣n đại diện cho Đồng minh.
Để thực hiện chính sách hy sinh đó, ông
Hồ đă lẩn tránh một cách tài t́nh bằng
cách đổi tên Giải phóng Quân của ông
thành Vệ quốc Đoàn và phân tán nó vào
các vùng hẻo lánh xa xôi, cho nó bớt vẻ
quan trọng và tránh được xung đột với
quân đội Lư Hán.
Sau đó, ông Hồ đă đề
cập với Lư Hán vấn đề cung cấp lương
thực cho quân chiếm đóng, đồng thời tiếp
tế cho dân chúng.
Lư Hán tỏ ra quan
tâm và đồng ư về nguyên tắc với đề nghị
của ông Hồ cho quân Trung Quốc t́m biện
pháp tiếp tế gạo từ Nam Kỳ ra.
Nhưng miền Nam lại thuộc quyền kiểm soát
của người Anh nên Lư Hán không tin là có
thể thu xếp được vấn đề này nếu không có
su giúp đỡ của Chính phủ Lâm thời.
Ông Hồ đáp lại là
khả năng của ông rất hạn chế v́ hiển
nhiên ông không có quyền lực, tài chính
cũng như phương tiện vận tải.
Đó là một cuộc đối
thoại vô hiệu quả giữa sự không khoan
nhượng của Trung Quốc và sự bất lực của
Việt Nam.
Một vấn đề khác gây
cho ông Hồ nhiều điều lo lắng là khả
năng xảy ra các vụ xô xát, giết người
Việt Nam và Trung Quốc.
Lư Hán đảm bảo với
ông Hồ rằng đă ra những mệnh lệnh nghiêm
ngặt nhất cho toàn thể đội quân của ông
phải cư xử đúng mức và tránh mọi va
chạm, nếu không sẽ bị nghiêm trị.
Với thái độ chủ động và cốt để ông Hồ
cảm nhận được quyền lực của Trung Quốc,
Lư Hán nhắc nhở ông Hồ là sự hoà hợp
phải có đi có lại và ông Hồ phải thực
hiện sự hợp tác và giúp đỡ quân chiếm
đóng trong việc duy tŕ trật tự và đặc
biệt là làm cho dân chúng trấn tĩnh lại.
Khi cuộc gặp gỡ kết thúc, như chợt nhớ
ra, Lư Hán báo cho ông Hồ biết là phải
cho lùi giờ Hà Nội lại một tiếng đồng hồ
ngay theo như giờ Trung Quốc để tránh
mọi sự lộn xộn và rắc rối về quản lư
hành chính không cần thiết. Yêu sách tai
hại cuối cùng này đă gây ra bất măn cao
độ v́ đối với ông Hồ, điều đó thể hiện
sự kiêu căng trịch thượng và sự can
thiệp vào công việc nội bộ của người
Trung Quốc, nhưng tất nhiên, ông cũng đă
phải đồng ư.
Xong các vấn đề cụ thể, Lư Hán lấy một
giọng điệu hoà giải hơn và tuyên bố rằng
sự có mặt của Trung Quốc ở Đông Dương là
vấn đề “thuần tuư quân sự và nhằm đáp
ứng lại yêu cầu của các cường quốc Đồng
minh để giải giáp và hồi hương quân
Nhật”. Thực hiện
xong điều đó, nhiệm vụ của Trung Quốc ở
Việt Nam sẽ kết thúc.
Mặc dù Lư Hán đă có một thái độ quân
phiệt sống sượng trong khi đề ra các yêu
sách trong cuộc gặp gỡ, nhưng rơ ràng
ông Hồ lại coi đó là một dấu hiệu tốt.
Ông xác định nó cũng
mang lại được kết quả là “đă xây dựng
được một sự quan hệ thân thiện”.
Tôi thực khó mà hiểu
được cách nói và lập luận kiểu phương
Đông này, nhưng ông Hồ đă kiên tŕ giải
thích đây không phải là những cái đă
được nói ra mà là những điều bao hàm ở
trong đó. Tỉ dụ như việc Lư Hán
thể hiện đă ngầm cam kết không giải tán
hoặc gây trở ngại cho Chính phủ Lâm thời
mà lại cũng làm việc với Chính phủ khi
mà Chính phủ vẫn nắm được quyền quản lư
nội bộ đất nước. Ông Hồ cũng cho rằng
điều cam kết đó c̣n có nghĩa là Lư Hán
sẽ không ủng hộ và giúp đỡ những người
Quốc gia thân Trung Quốc thuộc bè lũ
Trương Phát Khuê, “nhóm Lưỡng Quảng”
(Quảng Đông và Quảng Tây) thuộc quyền
của những lănh tụ như Nguyễn Hải Thần và
Trương Bội Công(18).
Lần đầu tiên, ở đây tôi khám phá ra vết
rạn nứt chia rẽ giữa Lư Hán và Tiêu Văn,
cố vấn chính trị của ông ta. Và
tôi cũng rất kinh ngạc trước diễn biến
của t́nh h́nh sắp tới, khi biết tin Đồng
minh Hội, một con bài quan trọng trong
kế hoạch chính trị tương lai của Tiêu
Văn, đă sẵn sàng ở Hà Nội và đang lo
toan việc thách thức với Việt Minh.
Chú thích
(1) Marcel Gouin, giáo sư
kiến trúc trường Đại học Hà Nội
(2) Pháp đă bị thất bại trong mưu đồ lập
lại chế độ thuộc địa trước chiến tranh ở
Syrie (trái với lời cam kết của Đồng
minh đă hứa với chính phủ Syrie) v́
Churchill đă ép De Gaulle phải ra lệnh
rút quân Pháp ra khỏi Trung Đông để đưa
đi chiến đấu cùng với quân Đồng minh ở Ư
và Bắc Phi
(3) André Lebrun, hoạt động trong phong
tráo kháng chiến Pháp cho đến khi được
chuyển sang Sài G̣n tháng 1-1945. Ông đă
t́m đường ra Hà Nội vào tháng 2 để hoạt
động cùng với số bạn bè cấp tiến trong
phong trào thanh niên giành độc lập,
nguỵ trang làm cha đạo trong Thành để
giúp người Việt Nam trong lúc khởi
nghĩa.
(4) Charles De Gaulle, “Hồi kư chiến
tranh”
(5) Sainteny, “Lịch sử”; B. Fall, “Hai
Việt Nam”
(5) Vơ Nguyên Giáp, “Những năm tháng
không bao giờ quên”
(7) André Evard, mật thám của OSS tại Hà
Nội, đáng nghi ngờ nhưng đă có lúc làm
thông tín viên chó hăng UP, đồng thời là
trợ lư giám đốc hăng Air France ở Hà
Nội.
( 8 ) Viên
đại tá này đă thoát được cú vét lưới 9-3
của Nhật và tiếp tục liên lạc với những
người Pháp hoạt động bí mật. Bà Calavin,
vợ ông ta, cũng cộng tác với phong trào
của Mordant cưới quyền của bà Sarraut
(chị dâu Sainteny) nhưng đă không xâm
nhập được vào phái đoàn OSS ở Hà Nội
trong tháng 8-1945.
(9) Jean Laurent, Tổng giám đốc Ngân
hàng Đông Dương
(10) trước là Ban công tác đối ngoại Đệ
tứ chiến khu
(11) Nguyên văn: Vietnamese Armed
Forces, cũng có thể đọc là “Quân đội
Việt Nam”, hoặc “Quân đội Quốc gia Việt
Nam”
(12) Chi phí chiếm đóng do chính phủ
Trung Quốc bắt Pháp phải chịu bằng cách
hàng tháng Trung Quốc rút ra một khoản
tiền (40 triệu đồng) của Ngân hàng Đông
Dương để chi cho “các nhu cầu cấp bách
về quân sự”. Khoản
tiền này đă được thanh toán teo “Hiệp
ước Pháp - Hoa” sau này.
(12) Cuối cùng, cuộc bầu cử đă được tiến
hành ngày 6-1-1946.
Đồng minh Hội được 20/300 ghế trong
chính phủ mới. Nguyễn Hải Thần
được “bầu” là Phó Chủ tịch Chính phủ
Liên hiệp
(14) Có tin Lư Hán tới Hà Nội vào khoảng
từ 9 đến 18-9. Nhưng
ngày chính xác th́ như đă nói ở trên và
đă được báo cáo cho OSS đện số 119 ngày
14-9 của Patti gửi Indiv.
(15) Nhiều nhà báo đă ấn định số quân
chiếm đóng của Lư Hán là 18 vạn. Con số
này ch́ là áng chừng tổng số quân đă qua
lại ở đây trong thời gian chiếm đóng
(9-1945 - 10-1946). Chính phủ Trung Quốc
đă nêu con số 15 vạn quân để tính chi
phí chiếm đóng cho người Pháp gánh chịu.
Có thể trong mỗi lúc
nhất định th́ không quá 5 vạn quân đồn
trú tại chỗ.
(16) gồm Shao Pai - Chi’ang (Quân quản),
Ling Chi - han (Ngoại giao), Chu Hseich
(Tài chính), Chuang Chih - Huan (Kinh
tế), Cheng Fang - Heng (Giao trông), Ma
Ts’an - Yung (Lương thực) và Hsing Shen
- Chow (Quốc dân Đảng)
(17) công ty uỷ thác
(18) Trương Bội Công tới Trung Quốc sau
cuộc đàn áp Yên Bái 1930 và đi theo phái
Việt Nam Quốc dân Đảng ở Nam Kinh
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures