US Senator John McCain , Kim Âu Hà văn Sơn
NT Kiên , UCV Bob Barr, Kim Âu Hà văn Sơn
Nguyễn Thái Kiên , Kim Âu Hà văn Sơn, Cố vấn an ninh đặc biệt của Reagan-Tỷ phú Ross Perot,Tŕnh A Sám
Viet Nam The Real Story Videos
Chiến Tranh Việt Nam Videos
Sức Mạnh Chính Nghĩa Videos
Hải Chiến Hoàng Sa Videos
TẠI SAO VIỆT NAM ?
WHY VIETNAM ?
BẢN DẠO ĐẦU CON CHIM HẢI ÂU CỦA NƯỚC
MỸ
(Prelude to America’s Albatross)
TÁC GIẢ : Archimedes L.A. Patti
Người dịch:
Lê Trọng Nghĩa
Chương 33
Những cảnh trái ngược
Ở miền Bắc
người Việt Nam đang cho thí nghiệm một
cuộc cách mạng đổi đời dựa trên cơ sở
một sự thay đổi về chính quyền, không ǵ
khác hơn là một sự chuyển biến từ chế dộ
thực dân sang chế độ tự quản, và không
thông qua bạo lực.
Như ông Hồ thường nhắc mọi người, đây là
lúc để điều chỉnh, cải tổ và xây dựng
lại. Cuộc
cách mạng kinh tế xă hội sẽ tới sau.
Cuộc chiếm đóng hoà b́nh của Trung Quốc
ở phía bắc vĩ tuyến 16 hoàn toàn trái
ngược với việc tiếp quản bằng vũ lực của
Anh ở Nam Kỳ. Khác với người Anh đă trục
xuất thẳng tay Lâm uỷ Nam Bộ khỏi dinh
Toàn quyền ở Sài G̣n, người Trung Quốc
chấp nhận để Chính phủ của ông Hồ đóng
tại Bắc Bộ Phủ và cộng tác với họ suốt
trong thời gian chiếm đóng.
Ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, họ cũng không cần phải yêu cầu người
Nhật đàn áp những người Quốc gia và dọn
đường cho Pháp quay trở lại.
Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà chịu trách nhiệm về mọi việc.
Cảnh trái ngược đập
ngay vào mắt.
Tuy vậy, t́nh h́nh
Sài G̣n đă gây ra nhiều đợt phản úng ở
Hà Nội. Những tin tức về cuộc
tiếp quản trịch thượng của Gracey tới Hà
Nội vào trưa ngày 13-9 và nhiều tin đồn
đại được loan truyền: “Quân Anh dẫn đầu
cho quân xâm lược của Leclerc!”, “Trung
Quốc đă đồng ư cho người Pháp ở Trung
Quốc kéo về Bắc Kỳ để phối hợp với quân
của Leclerc”. Khắp
nơi người ta bàn tán về “kháng chiến”.
Chiều hôm đó, tôi gặp ông Hồ và ông cũng
nói với tôi: “Tất cả các đường thông tin
liên lạc từ Trung Quốc tới đă từng bước
bị phá hoại, và như vậy là nếu có xâm
lược th́ nhất định sẽ có chống cự bằng
vũ lực”.
Sáng và chiều nào, đài phát thanh Delhi
và Sài G̣n cũng sa
sả nói về việc quân Anh và Gracey tới.
Tất nhiên điều đó
chỉ khích lệ người Pháp và làm cho người
Việt hoảng sợ. Đài Delhi đă mở
dầu bằng câu chuyện về sự có mặt quân Ấn
để “giải giáp quân Nhật”, nhưng lại kết
thúc với tin về Gracey và chỉ trích ông
trong việc sử dụng quân Ấn để “dập tắt
phong trào Quốc gia Việt Minh”. Công
phẫn trước thái độ của Anh, ông Hồ đă
gửi một bức điện phản đối cho Atlee về
“thái độ không dân chủ của Mounbatten ở
Sài G̣n” và đă chỉ thị cho Bộ trưởng
tuyên truyền của ông tổ chức một cuộc
biểu tinh chống Anh vào ngày hôm sau.
Sáng sớm hôm đó,
trên đường phố Hà Nội đă đầy người xếp
hàng chuẩn bị diễu hành. Họ bắt
đầu vào lúc 8 giờ, mang
theo cờ Việt
Minh và hô khẩu hiệu chống Anh, vác áp
phích vẽ John Bull như một chúa tể ở
Đông Nam Á đang chinh phục Việt Nam.
Cờ Anh đă biến khỏi
rừng cờ. Có khoảng 5 hoặc 6 ngàn
người từ Nhà hát Thành phố tiến về quảng
trường Ba Đ́nh hô to phản đối “sự tàn
bạo” và thái độ “không dân chủ” của Anh.
Tại quảng trường,
một số diễn giả lên tiếng nhưng không có
ǵ tỏ ra muốn kích động sự phẫn nộ lên
quá múc. Mọi
việc đều được điều phối tốt.
Cuộc biểu t́nh đạt
tới đỉnh cao vào buổi trưa, với một bức
điện của ông Hồ gửi qua đài Hà Nội cho
Thủ tướng Anh Atlee. Nhân danh
“nhân dân Việt Nam tự do”, ông Hồ phản
đối phái đoàn Anh ở Nam Kỳ đă dùng vũ
lực gạt bỏ “Chính phủ hợp pháp” ra khỏi
trụ sở của họ ở dinh Toàn quyền. Ông Hồ
yêu cầu Thủ tướng Anh ra lệnh cho phái
đoàn phải “tôn trọng quyền và nền độc
lập của nhân dân Việt Nam”, kèm
theo một lời
đe doạ úp mở nói “để tránh xảy ra những
điều đáng tiếc trong tương lai”. Trong
khi mọi người c̣n đang vui mừng với
“việc biểu thị hoà b́nh và dân chủ của
sự trưởng thành về chính trị này”, th́
phía người Pháp lại mắc phải một hành
động thiếu suy xét nhỏ. Đám trẻ ngỗ
ngược theo De
Gaulle trong Thành (Hà Nội) đă t́m cách
trèo lên cắm cờ tam tài (Pháp) trên một
bao lơn cao. Do có sự can thiệp của đại
tá Norlingher nên lá cờ đă được hạ xuống
một cách khó nhọc, nhưng không phải là
trước khi tin đó đă bay tói “những người
biểu t́nh địa phương”.
Tôi cho sự việc
không có ǵ quan trọng mà nó chỉ phơi
bày một cách ngô nghê món láu cá của
Pháp. Nhưng
những người hoạt động Việt Nam th́ lại
cái đó là “một sự thách thức hết sức
khiêu khích”.
Sainteny đă cải chính không biết ǵ về
việc này nhưng lại tỏ ra hài ḷng với
“cánh trẻ ở trong Thành”.
Tôi đă định cho qua vấn đề, nhưng đột
nhiên có tin phản ứng của địa phương trở
nên gây gắt, và trên đường phố người ta
bàn tán việc “đánh vào Thành và cho Pháp
một bài học”. Nhưng sau đó đă không có
ǵ xảy ra, chủ yếu có thể v́ tôi đă khẩn
khoản với ông Hồ rằng tôi sẽ không thể
ngăn chặn được các biện pháp pḥng vệ
của Trung Quốc và Nhật, thậm chí ngay cả
khi người Việt Nam bị đổ máu.
Đó cũng là lần đầu
tiên và độc nhất, tôi đă ngăn ông Hồ và
chống lại những biện pháp chống Pháp mà
Việt Minh đă dự định. Sau này,
ông Hồ đă cảm ơn tôi về lời khuyên nhưng
đă hỏi khéo léo tôi không biết ông c̣n
phải chịu đựng “sự kiêu căng của Pháp”
cho đến mức nào nữa.
BÓP MÉO SỰ THẬT
T́nh trạng hỗn loạn do công
tác tuyên truyền của Pháp gây ra ở Hà
Nội, sau khi Gracey tới Sài G̣n, thể
hiện rơ qua các luận điệu và thủ đoạn
tuyên truyền của họ.
Ngày 13-9, tôi nhận
được tin từ Côn Minh là hành dinh của
OSS sẽ chuyển về Thượng Hải. Chỉ
vài giờ sau, người của Saniteny đă
tung tin OSS
đang rút khỏi Trung Quốc và cá nhân tôi
cũng sẽ bị gọi về Washington v́ tội
không phục tùng và có khuyết điểm trong
việc không giúp đỡ cho Pháp ở Đông Dương
“theo đúng mệnh lệnh của Đồng minh”.
Ngày hôm sau,
Sainteny đến hỏi tôi để biết khi nào th́
OSS chuyển về Washington. Tôi đáp
không có kế hoạch, th́ ông nói,
theo nguồn
tin của ông, chỉ trong ṿng từ 30 đến 60
ngày nữa.
Việc khác là việc cảnh sát địa phương đă
bắt được hai tù binh Pháp, trốn ở Thành
ra, mặc quân phục Mỹ và đi phá một hiệu
kim hoàn người Việt… Quân cảnh Trung
Quốc lại bắt được hai hạ sĩ người Việt
thuộc quân đội thực dân Pháp, cũng từ
Thành ra, ăn mặc quần áo Trung Quốc và
vào kho ăn cắp xe ô tô của Trung Quốc để
nhằm gây mâu thuẫn giữa người Trung Quốc
và Việt Nam.
… Họ c̣n tung
tin Mỹ đă phản bội Đồng minh; tư bản Mỹ
để mua được Hồ Chí Minh bằng máu của
người Pháp… Tin đồn nguy hại nhất là Côn
Minh đă ra lệnh cho người Trung Quốc thả
các tù binh Pháp trong Thành và cấp vũ
khí cho chúng để làm nhiệm vụ cảnh sát…
Tin này đă tác động đến một số người
Việt và được những người Quốc gia chống
Cộng nắm lấy sử dụng để chia rẽ quan hệ
Việt - Mỹ.
… Tướng Tiêu Văn cũng yêu cầu tôi
xác nhận tin Trùng Khánh đă cho phép
Alessandri ra lệnh cho người Nhật chỉ
huy nhà tù Hà Nội tổ chức các tù binh
thành đơn vị chiến đấu để giúp Trung
Quốc giữ ǵn trật tự.
Đại tá Stephens trong Bộ chỉ huy Chiến
trường Trung Quốc (CCC) lại muốn biết có
cơ sở ǵ để xác định Trung Quốc đă bố
trí cho Sainteny đến ở nhà Ngân hàng
Đông Dương là một bộ phận trong “mưu đồ”
Pháp - Hoa.
Bộ trưởng Tuyên
truyền Liệu th́ hỏi tôi tin tức t́nh
h́nh Sài G̣n xung quanh việc Hoa kiều ở
Chợ Lớn ủng hộ người Pháp đánh chiếng
lại miền Nam. Ông cũng rất quan
tâm đến vai tṛ của OSS đối với Phái
đoàn Sainteny và cái gọi là kế hoạch của
Mỹ rút lui khỏi Đông Dương.
Bộ máy tuyên truyền của Pháp c̣n hoạt
động mạnh mẽ ở các nước khác, từ Pháp,
châu Phi và Ấn Độ. Điển h́nh là việc có
một bản tin nói là phát đi từ San
Francisco nghe được ở Hà Nội ngày 17-9.
Bản tin bằng tiếng Việt báo “quân đội
Trung Quốc và Anh có mặt ở Đông Dương là
để duy tŕ luật pháp và trật tự trong
khi chờ cho quân đội Pháp và các quan
chức hành chính tới”. Tôi hỏi Côn Minh
và được trả lời: bản tin phát đi từ một
đài bí mật của Pháp (đài Brazzaville 2 ở
châu Phi) và đó là một tin hoàn toàn
bịa…
Các tin đồn đại này tác động không chỉ
đến người Việt mà tới cả một số người
Pháp trước đây rất thân thiện với tôi và
các người Mỹ khác ở Hà Nội. Trong bầu
không khí đă thay đổi đó, tôi điện về
Côn Minh: “từ khi chúng tôi tới đây,
người Pháp đă thay đổi thái độ đối với
Mỹ… từ rất thân thiện đến lănh đạm.
Đặc biệt đối với
tôi, rất lạnh nhạt”.
Mỗi việc rất nhỏ nhặt cũng được sử dụng
để chống lại người Mỹ. Sáng ngày 18-9,
Sainteny lại đến gặp tôi về việc “mất
sữa khô”. Và đến chiều lại có tin đồn là
lương thực của người Pháp gửi để cứu đói
cho người Việt Nam bằng máy bay Mỹ đă
được Mỹ trao cho người Trung Quốc để bán
ra chợ đen ở Hà Nội.
Nhưng không phải chỉ có người Pháp tuyên
truyền chống Mỹ. C̣n có người Nhật, và
Matsushita vẫn sử dụng được bộ máy tuyên
truyền của Trung tâm Văn hoá Hà Nội, Huế
và Sài G̣n và cũng đạt được ít nhiều kết
quả trong một bộ phận dân chúng chống
Việt Minh…
Chiến dịch tuyên truyền của Nhật, kết
hợp với của Pháp đă gặm nhấm dần h́nh
ảnh Mỹ, gây ra một bầu không khí không
lành mạnh đến mức tôi đă phải yêu cầu
OSS Côn Minh cho tiến hành những biện
pháp chống trả lại.
Nhưng tôi đă bị đánh bại bởi những phần
tử thân Pháp khá mạnh trong ngành Điều
tra và Nghiên cứu (R&A) của chúng ta.
Họ cho là tôi quá
khắt khe đối với lập trường của Pháp.
Ở R&A, người ta cho
rằng Pháp đă bị tước bỏ quyền chính đáng
đ̣i lại Đông Dương một cánh bất công và
người Mỹ chúng ta phải tỏ ra thông cảm
với Pháp hơn nữa về vấn đề này.
Cả Heppner và Helliwell đều không đồng ư
và đă chuyển thẳng các báo cáo của tôi
về OSS Washington và tướng Wedemeyer mà
không thêm bớt ǵ.
“GIỐNG NHƯ CON BỌ CHÉT TRÊN
M̀NH CHÓ”
Trong khi t́nh trạng rối
loạn ở Sài G̣n trầm trọng hơn và chiến
dịch phao tin đồn đạt tới những đỉnh cao
mới th́ những người Việt lưu vong ở
Trung Quốc kéo về nước. Họ mang
theo cao vọng
là sẽ nắm trọn quyền lănh đạo đất nước
nhưng lại quá kém về tổ chức và không có
được một chương tŕnh hành động ra hồn.
Họ đă sống tập trung
nhiều năm ở Quảng Tây dưới sự che chở
của Trương Phát Khuê và ngẫu nhiên trở
nên chống Pháp.
Họ hy vọng dựng lên
một nước Việt Nam độc lập với sự giúp đỡ
của Trung Quốc. Khi chiến tranh
kết thúc, ai cũng đinh ninh là việc
chiếm đóng Đông Dương sẽ được trao cho
Trương, nên việc chuyển nhiệm vụ đó vào
phút chót cho Lư Hán, đă làm cho người
lưu vong vô cùng bối rối.
Liên minh Đồng minh
Hội đầy tham vọng và rạn nứt, đă bị lạc
lơng. Việt
Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt cũng tách
khỏi liên minh và t́m cách giành cho
ḿnh quyền lănh đạo.
Sự tan vỡ đă làm cho những người lưu
vong được Trung Quốc nâng đỡ mất hết
hiệu lực, và họ phải chia làm hai phe.
Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt đi
theo viên tướng Vân Nam Lư Hán, những
người c̣n lại của Đồng minh Hội th́ ở
lại dưới quyền lănh đạo của Tiêu Văn,
phục vu cho Trương Phát Khuê và Quốc dân
Đảng (Trung Quốc). Sự chia rẽ đă làm lợi
cho Việt Nam suốt trong 6 tháng sau và
những người Quốc gia thân Trung Quốc đă
tự ḿnh cô lập khỏi đông đảo quần chúng,
đúng như ông Hồ đă dự đoán.
Vào cuối tháng 8, quân đội Trung Quốc đă
vượt qua biên giới
theo hai cánh. Các tập đoàn quân
62 và 53 của Trương Phát Khuê, dưới
quyền chỉ huy của tướng Tiêu Văn, tiến
từ Quảng Tây vào chiếm Cao Bằng, Lạng
Sơn và các cứ điểm chủ chốt dọc bờ biển
Đông Bắc đến Hải Pḥng. C̣n các tập đoàn
quân 93 và 60 của Lư Hán từ Vân Nam tiến
vào Lào Cai và đi dọc theo thung lũng
sông Hồng tới Hả Nội - Vinh - Đà Nẵng.
Dưới sự lănh đạo nhu nhược của Nguyễn
Hải Thần, Đồng minh Hội đi theo quân
Quảng Tây vào Cao Bằng và Móng Cái. V́
muốn giành cho ḿnh một địa vị lănh đạo
trong chính phủ mà ông cho rằng Trung
Quốc có thể dựng lên ở Hà Nội, nên ông
đă lao đi trước quân đội để về thủ đô
gặp người đỡ đầu là tướng Tiêu Văn. Khi
Thần đang trên đường về Hà Nội th́ Vũ
Kim Thành, một phụ tá tin cậy của ông đă
từng tập hợp được một đội quân vài trăm
người cho Đồng minh Hội, đă thành lập
một “Chính phủ Quốc gia Việt Nam Lâm
thời” ở Móng Cái và “bầu” Thần làm thủ
tướng. Trong khi
Thần vắng mặt th́ Thành nắm quyền thay.
Ngày 13-9, Thần tới Lạng Sơn với một số
quân do Nông Quốc Long dẫn
đầu(1).
Quân Đồng minh Hội
hạ cờ Việt Minh và kéo cờ của họ thay
vào đó. Thần cho họp mít tinh
quần chúng có khoảng 3 hay 4 trăm người
và nói với quần chúng “rằng họ phải
theo sự lănh
đạo và chính sách của Trung Quốc ngay cả
khi phải trả giá bằng nền độc lập của
ḿnh”. Nghe thấy
thế, “quần chúng” liền bỏ đi, kéo cờ
Đồng minh Hội xuống và trương cờ Việt
Minh lên. Chắc chắn là đă có cán
bộ Việt Minh lănh đạo quần chúng trong
cuộc loạn đả sau đó.
Quần chúng được đội tự vệ hỗ trợ, đă tấn
công vào đám bộ hạ của Thần cho tới khi
quân Trung Quốc đến lập lại trật tự.
Thần và bọn tay sai liền rút khỏi Lạng
Sơn về Kỳ Lừa và ra lệnh cho “quân đội”
của Vũ Kim Thành xúc tiến một cuộc hành
quân trừng phạt trong vùng từ Lạng Sơn
tới Chữ, ở phía bắc Kép.
Cùng ngày đó, tôi lại được tin là tất cả
dân chúng Việt Nam dọc đường xe lửa từ
Lạng Sơn tới Kép đă phải bỏ nhà cửa,
ruộng đất ra đi sau những ngày bị binh
lính Tập đoàn quân 62 và bọn “thổ phỉ”
tay chân Trung Quốc cướp phá.
Bọn thổ phỉ này
chính là quân của Vũ Kim Thành.
Đây không phải là một bước đầu đă làm
được cho “quần chúng nhân dân” “quư
chuộng” các lănh tụ đă xuất ngoại và cái
chính phủ ma ở Móng Cái chỉ tồn tại được
tới cuối tháng 10, khi Tiêu Văn ép được
Nguyễn Hải Thần hợp tác với chính phủ
ông Hồ trong một mặt trận thống nhất
chống Pháp.
Trong lúc Đồng minh Hội
gây ra sự tàn phá suốt dọc miền đông bắc
Bắc Kỳ, th́ lực lượng của Vũ Hồng Khanh
(Việt Nam Quốc dân Đảng) và của Nguyễn
Tường Tam (Đại Việt) đi theo tập đoàn
quân 93 Vân Nam, cũng tiến hành những
bài bản cướp bóc tương tự, dọc theo hành
làng tây bắc từ Lào Cai đến Yên Bái, Phú
Thọ.
Giữa lúc ông Hồ đang tính toán đối với
những người Quốc gia lưu vong từ Trung
Quốc về th́ tôi nhận được công văn phản
đối của Bạch từ Sài G̣n gửi tới và đă
mang ra thảo luận với ông Hồ. Ông đồng ư
với nội dung công văn của Bạch và với
một vẻ đau khổ và nhịn nhục, ông nhận
xét thêm là những nỗi lo sợ xấu nhất của
ông nay đă thành hiện thực.
Ông ngẫm nghĩ “Giá
mà có được một cách nào để chặn được
cuộc tấn công dữ dội không thể tránh
khỏi”. Ông nói riêng với tôi là
đă có nhiều người của Giàu, đêm trước đă
tới gặp, mang theo
nhưng tin tức làm nản ḷng. Sự việc ông
đưa ra, về căn bản không khác ǵ mấy đối
với các báo cáo của Dewey, nhưng tôi
nghĩ các quan điểm và sự sáng suốt của
ông th́ thực đáng chú ư đặc biệt.
Ông Hồ đă chỉ trích mạnh mẽ quyết định
của Gracey về việc thả tù binh Pháp lúc
ban đầu. Ông Hồ nghĩ rằng các tù binh
Pháp đó ngoài việc tức tối đối với người
Nhật đă cầm tù họ, họ c̣n khinh miệt
người Việt Nam trước đây đă coi họ như
những ông chủ và chúa tể.
Ông Hồ thấy những
người Pháp này, cũng như các đồng hương
của họ ở Đông Dương, đang phải chịu đựng
một t́nh trạng gây cấn về tâm lư.
Trong 4 năm, họ đă phục vụ cho Nhật và
Vichy, rồi lại trở thành tù nhân của
ngay những ông chủ mới này, trong khi
đồng bào của họ ở miền Bắc đă chiến đấu
(ít nhất th́ cũng trong dư luận của tù
binh) oanh liệt cho nước Pháp của De
Gaulle. V́ vậy, theo ông Hồ phân tích,
chỉ có một cách duy nhất dể làm cho
lương tâm họ được thanh thản là phải làm
được một cái ǵ gây xúc động cực kỳ mạnh
mẽ, như cuộc đảo chính ở Nam Kỳ. Đó sẽ
là một điều rất dáng tiếc, ông Hồ nói
thêm. Người Pháp sẽ
không bao giờ trở lại được Việt Nam,
trước khi “nhân dân sẽ tiêu huỷ đất nước
này và hy sinh cho đến người đàn ông,
đàn bà và trẻ con cuối cùng”.
Ông Hồ nhận định
việc Mounbatten giao cho Gracey đảm
nhiệm công việc ở miền Nam là một sự lựa
chọn kém cỏi. Gracey là một sĩ
quan thực dân thâm căn cố đế, chỉ biết
phục vụ cho sự tồn tại của nền trật tự
cũ. Có nổi loạn, ông Hồ nói, và chỉ có
người Pháp và “những người bạn thực dân”
của họ đă không chịu chấp nhân một sự
thực là Việt Nam đă là một nước độc lập,
người Pháp là những người ngoại quốc; và
từ năm 1940, người Việt Nam đă sống qua
được một cách đàng hoàng không có họ.
Với một thái độ trầm ngâm, ông Hồ nhận
xét, “Tôi mong rằng Đồng minh sẽ giải
thích cho những người mới tới (chỉ những
người theo De
Gaulle) mục đích của Hiến chương Đại Tây
Dương”… Điều mà ông muốn nói đúng là “…
tôn trọng quyền của tất cả các dân tộc
được sự lựa chọn h́nh thức chính quyền
mà họ muốn…” Đó là điều… mà ông chắc
chắn Mỹ đă nắm được nhưng c̣n Anh?…
Nhưng rồi với một vẻ
thất vọng, ông nói thêm chỉ có đấu tranh
vũ trang của nhân dân Việt Nam chống kẻ
thù của họ mới có thể giải quyết được số
phận tương lai của đất nước ông.
Suốt trong tuần lễ
trước, mỗi một lần gặp ông Hồ, tôi lại
mất đi cái cảm giác ông không c̣n kiểm
soát được trọn vẹn t́nh h́nh nữa.
Ông đă để lại cho tôi một ấn tượng là
nắm rất chắc các sự kiện đang bao vây
lấy ông: trước hết là người Pháp ở miền
Nam, rồi người Trung Quốc ở phía Bắc, sự
ly khai về chính trị và chia rẽ nội bộ,
và thường xuyên là t́nh h́nh kinh tế
nguy ngập. Mọi sự
đều không phải là tốt đẹp cho Việt Minh
cũng như cho Việt Nam.
V́ vậy, trong “ông
già” là cả một mớ các cuộc đấu tranh.
Mắt ông lóe sáng v́ thích thú và v́ giận
dữ. Nhưng bao giờ
ông cũng giữ được chủ động một cách
thích đáng.
T́nh h́nh miền Nam xấu đi đă kéo theo
một sự xói ṃn về cơ sỏ chính trị của
ông Hồ ở miền Bắc. Một tuần sau khi Tam
và Thần về tới Hà Nội, một số các báo
chí tiếng Việt đại diện các người quốc
gia thân Trung Quốc đă đưa ra những bài
với tít lớn - “NGƯỜI PHÁP CHIẾM LẠI NAM
KỲ”. Các bài tường
thuật của họ, c̣n xa mới đúng sự thực,
nhưng cũng đạt được mục đích mô tả Việt
Minh là bất lực và có khi là phản bội.
Cũng ngày hôm đó, 20-9, tờ nhật báo
tiếng Hoa, lần đầu tiên đăng tin Tam và
Thần về tới Hà Nội, cùng với một lời
khẩn cầu Quốc dân Đảng (Trung Quốc) ra
tay “cứu văn” nền độc lập của Việt Nam.
Tôi không ngạc nhiên
về việc những tin tức trên lại không làm
cho ông Hồ mất vẻ b́nh thản gần như thụ
động trước cuộc tuyên chiến công khai
của người Quốc gia thân Trung Quốc.
Ông đă có lần nói
với tôi về “một kế hoạch đối phó với bọn
tay sai này”, nhưng tôi không rơ ông đă
cho tiến hành chưa? Tại sao ông
lại dung thứ cho các hoạt động phá hoại
của họ trong khi ông có đủ quyền hành và
lực lượng để tiêu diệt họ?
Ngoài cái lợi thế
được Trung Quốc đỡ đầu, điều ǵ đă làm
cho những người thân Trung Quốc tỏ ra
liều lĩnh như vậy? Tôi đề ra các
thắc mắc này với ông Hồ.
Ông Hồ trả lời: chúng chỉ là một sự quấy
rầy chứ không phải là một mối đe doạ,
giống như “con bọ chét bám vào lưng chó”
mà người ta phải chịu đựng nếu không
phải v́ lư do nào khác hơn là v́ phải
coi họ như những miếng mồi để đút lót
các viên tướng Trung Hoa. Ông Hồ cho
rằng mục tiêu trước mắt cao nnất của
Quốc dân Đảng (Trung Quốc) là nhằm giữ
người Pháp đứng ngoài Đông Dương, và ủng
hộ cho phong trào quốc gia cho đến khi
Trung Quốc giành được thắng lợi trong
cuộc điều đ́nh với Paris. Ông đă cuộc
rằng khi nào mà Việt Nam hoặc một chế độ
thân Trung Quốc c̣n nắm được chính quyền
th́ Pháp không thể mưu tính một cuộc lật
đổ ở miền Bắc.
Từ những ngày mới tới Trung Quốc, tôi đă
dược biết những người Việt lưu vong là
một nhóm người xuất dương đi t́m đường
giải phóng dân tộc.
Nhưng ngoài Việt Minh ra th́ họ thiếu sự
liên kết về chính trị và thiếu lănh đạo.
Họ chống Cộng quyết liệt, dựa hẳn vào sự
ủng hộ của Trung Quốc hoặc Nhật và sự
đồng t́nh của Mỹ. Trong số hội viên Đồng
minh Hội và Quốc dân Đảng mà tôi đă tiếp
chuyện, tôi thấy họ hoàn toàn không có
các chương tŕnh kinh tế xă hội để giải
quyết các nhu cầu của quần chúng.
Họ nói đến “nắm
chính quyền”, nhưng thực tế không ai
biết chắc là sẽ để làm ǵ. Họ đă
mất phương hướng một cách đáng thương
hại trong lĩnh vực chính trị, v́ nhiều
người được coi là lănh tụ, như Nguyễn
Hải Thần, người đă sống xa đất nước quá
lâu ngày ở Trung Quốc…
Tôi đă phải kết luận
rằng… họ chỉ có động cơ v́ quyền hành và
lợi ích cá nhân. Đă nhiều lần,
tôi nghe họ nói: “Chúng tôi sẽ nắm chính
quyền v́ chúng tôi có nhân dân và chúng
tôi sẽ phục vụ nhân dân”. Nhưng không
phải chỉ có họ đă quên, mà cả người
Pháp, cũng như người Mỹ sau này, đă thất
bại trong việc tranh thủ sự ủng hộ của
quần chúng nhân dân.
Ông Hồ vững vàng
hơn, ông đă nhắc cho tôi biết nhiều lần
là chỉ có Việt Minh mới có một chương
tŕnh hành động có thể thực hiện được và
được nhân dân Việt Nam ủng hộ.
Theo nhận xét của
riêng tôi, tôi đồng t́nh với niềm kiêu
hănh đó. Tuy
vậy, ông vẫn coi như c̣n có vấn đề, v́
trong một số giới, đặc biệt là trong
tầng lớp trung lưu Việt Nam, người ta
vẫn gán cho ông và đảng ông cái chiêu
bài “Cộng sản”. Những người Quốc
gia thân Trung Quốc lại không bị như
vậy, do đó ông đă phải làm mọi cách có
thể được để gạt bỏ tất nhiên không phải
là triết lư mà là cái nhăn hiệu nói
trên.
Trong tháng 8 trước đây ở Tân Trào, mọi
người đă thống nhất ư kiến là phải bằng
mọi giá tránh cho được, không để nổ ra
xung đột vũ trang với quân Tưởng hoặc
những người Quốc gia lưu vong. Để đạt
được mục đích đó, Việt Minh muốn nhấn
mạnh vào nhiệm vụ của người Trung Quốc
chỉ là giải giáp quân Nhật, và nếu cần
th́ Việt Minh sẽ phát động quần chúng để
tiến hành một cuộc phản đối không vũ
trang để vẫn duy tŕ được quyền kiểm
soát của Chính phủ trong khi hợp tác với
người Trung Quốc để giúp họ làm nhiệm vụ
trên.
Kế hoạch của ông Hồ
đă đặc biệt nhằm cô lập Việt Nam Quốc
dân Đảng và Đồng minh Hội, và dùng áp
lực của quần chúng để chống lại họ.
Tiến hành đấu tranh
vũ trang với họ chỉ là phương sách cuối
cùng. Nếu như các viên tướng
Trung Hoa lại ra mặt ủng hộ phe đối lập,
th́ ông Hồ sẵn sàng thoả hiệp để bảo
toàn được các mục tiêu của cách mạng.
Cơ hội đă đến gần.
Tôi biết đă có một cuộc họp bí mật vào
đêm 19-9 giữa ông Hồ và Nguyễn Tường Tam
và ông này đă đề nghị hợp nhất Đại Việt
của ông với Việt Minh.
Một ngày trước đó,
Nguyễn Hải Thần cũng có một đề nghị
tương tự cho Đồng minh Hội. Họ đă
bất ngờ chuyển quyết tâm sang cộng tác
với Việt Minh chỉ v́ họ thấy ông Hồ đă
nắm được chính quyền, c̣n họ đă bị gạt
ra ngoài. Ông Hồ có
được một bộ máy chính trị tổ chức hoàn
hảo, một chính phủ đang c̣n tồn tại và
được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân, kể
cả những người không phải là Cộng sản.
Con đường duy nhất mở ra trước mắt họ là
hợp tác cho tới khi ông Hồ và Việt Minh
bị mất uy tín và họ nắm được chính quyền
nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc.
Họ đề nghị đánh đổi
cho ông Hồ sự ủng hộ về tài chính cùng
với sụ hỗ trợ của Trung Quốc để nắm lấy
tổ chức của ông và sự đồng t́nh của quần
chúng.
Khi tôi đưa những đề
nghị đó ra thảo luận với Giáp, ông dứt
khoát không đồng ư. Theo ông, những đề
nghị đó không có giá trị và không thật
thà. Nó chẳng
khác ǵ thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp
bằng ách thống trị của Trung Quốc.
Về mặt tài chính,
nhân dân sẽ tiêu dùng với cái mà họ có
và sẽ tiêu dùng ít đi nếu như điều đó là
cần thiết để giữ ǵn nền độc lập của họ.
Nhân dân sẽ “chẳng
bao giờ chịu bán rẻ sự nghiệp chính
nghĩa của họ để đổi lấy đollar Trung
Quốc”.
Hoàng Minh Giám, một nhà ngoại giao xă
hội thực dụng, lại có một quan điểm thực
tế hơn. Ông nghĩ
rằng những đề nghị đó cũng có thể được
coi như là một phương sách nhất thời.
Một sự hợp nhất của tất cả các nhóm Quốc
gia có thể sẽ làm giảm bớt sự đối lập và
tăng cường thế lực cho Việt Minh, làm
yên tâm người Trung Quốc, c̣n người Pháp
sẽ phải lo nghĩ. Nhưng điều quan trọng
hơn cả, sẽ là việc Việt Nam ra mặt được
với Đồng minh, và đặc biệt là đối với
Mỹ, dưới h́nh ảnh của một chính phủ thực
sự “dân chủ”.
Bản thân tôi cho rằng, ở đây, ông Hồ sẽ
sử dụng đến cái chiến thuật thắng lợi
thường dùng nhằm điều đ́nh, tŕ hoăn,
tranh thủ thời gian, chờ thời cơ thuận
lợi sẽ đánh trả, để giành lại những mục
tiêu cơ bản của ông.
Tạ Quang Bửu, người
thanh niên thông thạo tiếng Anh của
Giáp, thỉnh thoảng cũng góp thêm sự hiểu
biết về các sắc thái của cuộc rối rắm ở
Trung Quốc. Bửu có ư kiến là mặc
dù Tưởng thừa nhận là đứng trung lập,
nhưng ở Trung Quốc vẫn có hai lực lượng
đấu tranh với nhau và cả hai đều mong
muốn làm chậm lại việc người Pháp quay
trở lại Việt Nam càng lâu càng tốt.
Quốc dân Đảng Trung
Quốc cho việc chiếm đóng là một cơ hội
để ép Paris phải nhân nhượng. Các
tướng địa phương, đặc biệt là Lư Hán,
lại coi việc chiếm đóng là một dịp cổ
truyền để cướp đoạt, gây dựng một nguồn
và thị trường lâu dài để buôn lậu, và mở
rộng quyền sở hữu của họ ra vùng ngoài
biên giới Trung Quốc.
Ngay sau khi vào
Việt Nam, cả hai lực lượng Trung Quốc
nói trên đă xung đột với người Pháp cũng
như người Việt.
Người Pháp đă cộng
tác với Trùng Khánh từ đầu tháng 8,
nhưng lại thấy Lư Hán ngoan cố và thực
tế chống đối lại họ. C̣n ông Hồ,
ông cũng đương đầu lại với mối đe doạ có
thể bị đánh đổ bởi các đối thủ chính trị
do Trung Quốc nuôi dưỡng, nhưng cũng may
mà phe đối lập của ông lại đang bị ở
trong một t́nh trạng chia rẽ nghiêm
trọng.
Theo Bửu, t́nh trạng chia rẽ đó sẽ tác
động đến những nhà chính trị quốc gia
Việt Nam v́ các viên tướng Trung Hoa ở
Việt Nam cũng xung đột nhau về chính
sách chiếm đóng. Tiêu Văn, đại diện Quốc
dân Đảng, ủng hộ chính sách 14 điểm về
chiếm đóng. Nhưng trong 14 điểm đó th́
ít nhất cũng có tới 4 điểm là nguồn
thường xuyên gây bực bội cả cho tướng Lư
Hán và cho Pháp:
1- mời một đại diện Pháp tham gia buổi lễ tiếp nhận đầu hàng,
2- duy tŕ cơ cấu công nghiệp và việc điều hành công tác chính phủ cho tới khi thực hiện xong việc thương lượng giữa nhà chức trách chiếm đóng và người Pháp;
3- đ̣i hỏi người Pháp ở Hà Nội phải yêu cầu “người Việt Nam” cung cấp lương thực và vận chuyển cho các lực lượng chiếm đóng (Bộ Ngoại giao Trung Quốc sẽ điều đ́nh về các hiệp định thanh toán); và
4-
giữ một thái độ trung lập đối với
các mối qua hệ Pháp - Việt.
Các điểm này, Bửu
nói, không có ǵ phù hợp với lời tuyên
bố cao thượng gán cho Tưởng rằng “người
Việt Nam sẽ dần dần đạt tới độc lập phù
hợp với những nguyên tắc của Hiến chương
Đại Tây Dương”.
Tôi nói với Bửu rằng
không có ǵ chứng thực là Tưởng đă phát
ra bản tuyên bố đó.
Theo tôi hiểu th́ đó
là việc của Tiêu Văn chỉ nhằm để tuyên
truyền, không được Trung Khánh thông
qua. Tôi nói cho Bửu hay là chúng
tôi có được tờ thông báo của Đồng minh
Hội phân phát rộng răi ngày 10-9, bốn
ngày trước khi Lư Hán tới Hà Nội. Nội
dung nói đại diện cho chính sách của
Quốc dân Đảng (Trung Quốc) và từ dó có
thể hiểu là của Tưởng. Bửu đọc tờ thông
báo và cũng cho rằng đó mới là chính
sách của Trung Quốc, trong dó có đoạn
viết:
“… Người Trung Quốc ủng hộ Hiến chương
Đại Tây Dương,…
và các cường quốc Đồng minh không hề có
tham vọng đất đai (ở Đông Dương)… Các
nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương
sẽ là cơ sở cho một chế độ quản lư tự
trị trong lúc này, để rồi có thể đưa đến
một nền độc lập của dân tộc, và các
nguyên tắc đó của Hiến chương Đại Tây
Dương sẽ là phương châm chỉ đạo (sic)
cho người Trung Quốc ở Đông Dương”.
Đại sứ quán chúng ta ở Trùng Khánh cũng
bị tuyên truyền của Đồng minh Hội làm
cho mê muội và đă bắt tôi phải xác định
một lời tuyên bố trong báo chí ở Côn
Minh, nói là của tướng Lư Hán, mà người
ta cho rằng: “ông đă tuyên bố trong một
cuộc họp báo chính thức ở Hà Nội ngày
5-9 là ông có thiện cảm với phong trào
độc lập dân tộc của người An Nam và với
cuộc biểu t́nh của họ chống lại hành
động của người Anh trong việc “xúi giục
người Pháp đă kéo cờ Pháp lên và dùng vũ
lực chiếm các cơ quan của người An
Nam(2).
Cũng trong buổi họp đó, tướng Lư Hán đă
tuyên bố là Trung Quốc không tham vọng
đất đai ở Đông Dương và mệnh lệnh của
Tổng thống Tưởng Giới Thạch chỉ nhằm mục
đích giúp đỡ cho các dân tộc nhỏ yếu
thực hiện được nền độc lập và tự trị của
nước ḿnh”.
Trả
lời của tôi cho Trùng Khánh đă vạch ra
sự thật.
Không thể có cuộc
họp báo nào của Lư Hán vào ngày 5-9 ở Hà
Nội được v́ lúc đó ông ta đang ở Trung
Quốc và cho tới ngày 14-9 vẫn chưa tới
Hà Nội. Nhưng
Tiêu Văn th́ ở Hà Nội lúc đó và đă có
gặp nhiều đại diện báo chí. Và
nếu như Tiêu Văn đă đưa ra bản tuyên bố
nói là của Lư Hán, th́ cũng có thể hiểu
là Tiêu Văn có ư định muốn tranh thủ sự
bảo đảm của Lư Hán đối với kế hoạch của
Trùng Khánh nhằm nhanh chóng kết thúc
thắng lợi cuộc thương lượng Pháp - Hoa
và nhanh chóng chuyển quân đội Lư Hán
trở về nội địa Trung Quốc.
Khi đi sâu vào lập trường 14 điểm của
Tưởng, rơ ràng ông ta không có ư định để
cho ḿnh bị dính líu vào cuộc đấu tranh
giữa Pháp - Việt.
Tưởng vẫn coi Pháp là một cường quốc thế
giới có thế lực trong các nước Đồng minh
và không muốn cho vai tṛ Pháp ở Đông
Dương bị thử thách. Từ khi
Roosevelt chết, chủ nghĩa chống thực dân
Mỹ đă phải chuyển theo ư kiến của Anh và
Pháp là muốn cho Đông Nam Á trở lại
nguyên trạng cũ và Tưởng thấy đứng về
phía những người cách mạng Việt Nam
chống lại liên minh thực dân phương Tây
là một điều vô chính trị.
Lư Hán đă mạnh mẽ gạt bỏ 14 điểm của
Quốc dân Đảng và quở trách Tiêu Văn, ông
quan niệm chính sách Quốc dân Đảng là
thiển cận và chủ trương huỷ bỏ lập
trường lâu năm của Trung Quốc đi theo
các nguyên tắc Hiến chương Đại Tây
Dương. Cố gắng của Tiêu Văn để lừa khéo
Lư Hán vào lập trường của Quốc dân Đảng
trong thực tế đă mang lại những kết quả
ngược lại. Lư Hán chủ trương chiếm đóng
lâu dài Đông Dương, đặt Việt Nam dưới
quyền bảo trợ của Trung Quốc, và phải
lâu dài Việt Nam mới được độc lập mà
không cần đến sự giúp đỡ của người Pháp.
Sự ác cảm của ông ta
đối với người Pháp mà ông cho không phải
v́ họ là người da trắng mà c̣n là chống
Trung Quốc, là một nguyên nhân thường
xuyên làm cho Quốc dân Đảng bực bội.
Suốt trong thời gian Trung Quốc chiếm
đóng, cá nhân Lư Hán với tất cả khả năng
của ḿnh, đă làm thất bại mọi kế hoạch
của Pháp nhằm giành lại quyền kiểm soát
ở miền bắc Đông Dương. Vào đầu tháng 8,
tướng Alessandri đă được Hà Ứng Khâm cho
phép đi cùng với người Trung Quốc vào
Việt Nam, nhưng sau đó Lư Hán đă chặn
ông lại cho tới tận ngày 19-9.
Sự chia rẽ giữa Lư Hán và Tiêu Văn đă
phản ánh trực tiếp tới những người Quốc
gia Việt Nam đi theo họ: Việt Nam Quốc
dân Đảng và Đại Việt bám lấy quan điểm
của Lư Hán về chiếm đóng lâu dài và đặt
quan hệ hữu nghị với các tướng quân
phiệt Vân Nam; Đồng minh Hội lại đi theo
chiến thuật của Tiêu Văn, muốn cho Nhật
nhanh chóng rút lui và quân Lư Hán cũng
thoái triệt về Trung Quốc để Nguyễn Hải
Thần lănh đạo toàn quốc với sự bảo trợ
của Quốc dân Đảng (Trung Quốc). Người ta
sớm thấy cả hai phái đă phải đấu tranh
vối Hồ Chí Minh và Việt Minh, bất chấp
cả đường lối chính trị
chung và sách
lược.
QUỸ MUA VŨ KHÍ
Ông Hồ không phải chỉ có
những vấn đề chính trị phải giải quyết.
Trước hết là người
Nhật, sau đó là người Trung Quốc, đă đ̣i
hỏi phải nộp những món tiền lớn để “chi
tiêu cho việc duy tŕ trật tự và pháp
luật cùng các công việc chính khác”.
Từ ngày 1-9, mọi thuế khoá đă dược băi
bỏ, và thực tế không c̣n một khoản
thu nào cho
ngân sách Nhà nước. Trong
khi dó th́
Ngân hàng Đông Dương đă đóng các tài
khoản của Chính phủ và tuyên bố Chính
phủ “phá sản”. Các khoản chi tiêu hàng
ngày th́ c̣n có thể giải quyết được từ
nguồn này nguồn kia.
Nhưng trong t́nh
h́nh đó th́ không sao có thể đề xuất ra
được những chương tŕnh dài hạn.
Thực tế phần lớn các cơ quan hành chính
sự vụ đều do các người
lao động của
Đảng phục vụ dựa trên nguồn sinh sống
nhỏ nhặt của ḿnh và dựa vào sự ủng hộ
của một số người Việt có cảm t́nh. Đó
chủ yếu là một Chính phủ của những người
t́nh nguyện không ăn
lương.
Nhưng có một chương
tŕnh quan trọng bậc nhất đối với Chính
phủ ông Hồ lúc đó là việc kiếm vũ khí và
đạn dược. Nguồn cung cấp chủ yếu
trước đây vẫn là các kho tàng của Pháp
và Nhật. Nhưng quân đội Trung Quốc đă
tịch thu những kho này, và người Trung
Quốc đă nhanh chóng báo cho Việt Minh
biết là họ có thể có đủ vũ khí Nhật,
Pháp và cả Mỹ(3)
thông qua những người Trung Quốc, nếu
như họ đồng ư các “điều kiện”: giá cả
phải chăng, trả tiền ngay, và có thái độ
cộng tác với người Quốc gia thân Trung
Quốc.
Đứng trước 2 mối đe doạ: của người Pháp
ở miền Nam và những người Quốc gia thân
Trung Quốc ở miền Bắc, ông Hồ cảm thấy
việc cung cấp cho nhu cầu quốc pḥng
phải là việc ưu tiên bậc nhất. Sau khi
để hết tâm trí suy nghĩ và dựa theo ư
kiến của những người trợ thủ gần gũi của
ông, Vơ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng,
ông Hồ đồng ư cho thi hành một biện pháp
dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân
dân. Ngày 4-9, Chính phủ cho đặt ra quỹ
Độc lập do Bộ trưởng tài chính Phạm Văn
Đồng chủ tŕ. Tuần lễ 16 đến 22 tháng 9
được mệnh danh là Tuần lễ Vàng, để cho
tất cả những người công dân yêu nước, kể
cả những người không phải gốc Việt Nam,
cũng sẽ quyên góp cho quỹ chi tiêu về
quốc pḥng. Hai tuần
lễ sau khi quốc gia mới ra đời, Chính
phủ đă kêu gọi quyên góp lập lại quỹ để
giúp cho đất nước có thể tồn tại.
Phạm Văn Đồng đă mở đầu Tuần lễ Vàng
bằng một lời kêu gọi về một sự đóng góp
cá nhân… Buổi quyên tiền đă được tổ chức
chu đáo trước
toà nhà Chính phủ… Với nhiều bàn phủ
trắng… micro..
âm nhạc… và
thỉnh thoảng có người lên kêu gọi… Nhiều
người Việt Nam khá giả, một số mặc áo
dài quan chức, tiến lên các bàn và đặc
đồ quyên góp lên trên…
Nhưng ngày đầu thực
không đáng phấn khởi.
Số đông quần chúng
chỉ đến xem mà không có quyên góp ǵ.
Cả ngày chỉ thu
được một khoản nhỏ mọn 100 kư vàng và
khoảng 5 vạn đồng bạc.
Ông Hồ vốn không hào hứng với ư kiến bắt
nhân dân phải đóng góp phần của cải
nghèo nàn của họ, đặc biệt là đối với
những người nghèo, để mua vũ khí; nhưng
đây là v́ đất nước đang ở trong một t́nh
trạng tuyệt vọng, và các cố vấn của ông
đă đảm bảo rằng đó là biện pháp duy
nhất. Sau buổi lễ
nghèo nàn đó, Đồng và Giáp đă thuyết
phục được ông Hồ là chỉ có lời kêu gọi
của ông mới phát động được quần chúng
nhân dân. Ông
Hồ đồng ư, nhưng với điều kiện là ông sẽ
không trực tiếp ra mắt, và cử Đồng thay
mặt đọc lời kêu gọi.
Thứ hai, 17-9, Đồng đọc lời kêu gọi của
ông Hồ, bắt dầu bằng câu “V́ mắc bận
không thể tới được, nên tôi gửi lời kêu
gọi đồng bào toàn quốc…”.
Giải thích việc quyên góp là cần thiết
“để chống lại những mưu mô xâm lược của
đế quốc Pháp”, ông Hồ nhấn mạnh ông kêu
gọi chủ yếu… các gia đ́nh khá giả. Về ư
nghĩa của Tuần lễ Vàng, ông nói “đây
không phải chỉ có nghĩa của một cuộc
quyên góp để phục vụ cho việc bảo vệ đất
nước, mà c̣n mang theo một ư nghĩa chính
trị quan trọng(4).
Có thể ông cũng ngầm
muốn nói rằng một khoản lớn của quỹ này
sẽ được dùng để thoả măn ḷng tham của
Trung Quốc.
Bức thông điệp của ông Hồ thế mà
ăn tiền. Suốt
trong 6 ngày tiếp
theo, hàng đoàn những người khá
giả và nông dân b́nh thường đă lũ lượt
đến đặt lên trên bàn các đồ quư giá gia
truyền của gia đ́nh họ: dây chuyền, đồng
hồ, ṿng, nhẫn, hoa tai bằng vàng bạc và
đá quư… Một tuần lễ sau, báo chí địa
phương công bố đă quyên góp được 129 kư
vàng và 1,5
triệu đồng. Báo chí
đánh giá đó là kết quả của một cuộc
quyên góp “hết sức hào hiệp”, nhưng tôi
cho là c̣n khiêm tốn nếu so với tiền của
những nhà giàu Việt Nam.
Tôi không có điều
kiện để xác định số tiền quyên góp được
là bao nhiêu và cũng chẳng biết được
Trung Quốc đă “lấy” bao nhiêu.
Về sau ông Hồ nói với tôi, “Tôi cảm thấy
như là một kẻ phản bội” trong khi cho
phép “diễn cái tṛ này”, khi thấy “mỗi
đồng xu” chạy vào túi người Tnmg Quốc,
và mặc dù ông kêu gọi những gia đ́nh
“khá giả”, nhưng thực tế đồ vàng bạc,
của tế nhuyễn… đều do những người nghèo
khó mang đến, c̣n các thương gia, địa
chủ giàu người Việt và Hoa lại chẳng góp
được bao nhiêu.
Sau khi rời Việt Nam, tôi được toán của
chúng tôi báo cho biết là khoản tiền thu
được lớn hơn rất nhiều so với khoản tiền
đă được công bố, và ít nhất cũng có tới
2/3 số đó đă chạy vào túi người Trung
Quốc qua con đường mua bán súng ống và
chạy chọt về chính trị. Điều đó đă được
Vơ Nguyên Giáp xác nhận vào năm 1975,
khi ông viết số tiền quyên được là “20
triệu đồng và 370 kư vàng”(5).
Vấn đề tài chính của
ông Hồ c̣n bị những t́nh h́nh khó khăn
làm cho phức tạp thêm. Quân Trung
Quốc tới, đầu tiên đă làm nảy nở nạn chợ
đen về thuốc lá Mỹ, bánh kẹo, quân
trang, vũ khí ngày càng bành trướng, đặc
biệt trong cộng đồng người Hoa. Một bao
thuốc lá Mỹ giá 16 đồng… Giá hối đoái 1
dollar Mỹ ăn 14 kim
viên nhưng giá chợ đen phải là 20 kim
viên. Người Trung Quốc mua 1 dollar bằng
200 kim viên.
Giá chính thức ở Trùng Khánh là 100
kim viên, ở
Côn Minh là 150 đến 175 kim viên.
Điều nổi bật ở thị trường tài chính
tháng 9 ở Hà Nội là t́m đổi tiền kim
viên Trung Quốc để lấy dollar Mỹ và đồng
bạc Đông Dương. Tuy rằng hành dinh của
tướng Lư Hán tỏ ra như không quan tâm ǵ
làm đến việc đổi chác tiền Trung Quốc
này nhưng Trùng Khánh th́ rất lo lắng.
Đă có lệnh cấm các nhân viên người Mỹ
không được đổi tiền kim viên, trừ trường
hợp được cơ quan tài chính Trung ương
cho phép, và tất cả người Mỹ trước khi
rời Trung Quốc bắt buộc phải kê khai và
gửi lại tiền dollar ở Trung Quốc. Điều
hạn chế này, cùng với tin đồn đại là
Trung Quốc sẽ quy định lại giá hối đoái
đă làm cho những người buôn tiền cảnh
giác và làm cho thị trường tiền tệ phải
chững lại, ít hoạt động trong một thời
gian.
Tuần lễ Vàng cũng đă
ảnh hưởng đến việc kinh doanh tiền tệ,
nhất là giá vàng đă hạ từ 1.900 xuống
1.500 một lạng. Người ta cho rằng
vàng mất giá là do người Trung Quốc tung
ra tin đồn Chính phủ Việt Nam sẽ tịch
thu vàng, hoặc để Chính phủ chi tiêu,
hoặc mệnh lệnh của Lư Hán để cung phụng
cho Thống đốc Long Vân.
Những đ̣i hỏi về tiền của người Trung
Quốc và Nhật, việc buôn bạc, và sự biến
động trong giá cả tiền tệ; tất cả những
cái đó đă tác động tai hại đến nền kinh
tế và tài chính Việt Nam.
Nhưng
Chính phủ của ông Hồ chỉ loạng choạng mà
không sụp đổ, chủ yếu nhờ cái quyết tâm
của nhiều người đă phục vụ sự nghiệp
công cộng mà không đ̣i hỏi tiền lương.
TẠI SAO NGƯỜI PHÁP
LẠI BỊ LOẠI TRỪ?
Vào ngày 13-9,
Sainteny lại đến kêu ca với tôi.
Ông không bằng ḷng
về “mối quan hệ hữu nghị không cần thiết
giữa người Nhật và người Trung Quốc”.
Điều làm ông không
chịu là việc Pháp bị gạt ra ngoài cuộc
thương lượng Trung - Nhật về vấn đề đầu
hàng. Cũng khá lạ là cuối ngày
hôm đó, tôi cũng nhận được một yêu sách
tương tự của ông Hồ. Một cảm giác nghi
ngờ đă nảy sinh một sách vô t́nh trong
các mối giao tiếp b́nh thường giữa người
đại diện các nước Đồng minh và Nhật.
Đúng là Sainteny đă không thể chấp nhận
sự việc là trong các điều khoản của Hội
nghị Postdam đă không ghi nhận có Pháp
trong cuộc thương lượng đầu hàng. C̣n về
phía ông Hồ, ông có ư kiến là “Chính phủ
thực tế” của ông cũng cần phải biết
tương lai của Việt Nam sẽ ra sao và
người Trung Quốc sẽ bày vẽ ra cái ǵ.
Theo ông Hồ, người Trung Quốc không
những gian lận mà c̣n phạm tội ác trong
việc nẫng tay trên các tài sản của Nhật,
mà ở đây tôi hiểu là vũ khí và các đồ
quân dụng, và đồng thời đă cho chở một
số lớn các kho lương thục và vật phẩm về
Trung Quốc.
Hai ngày sau, Salnteny đến gặp tôi lần
nữa để thảo luận việc tướng Lư Hán đến
trong ngày hôm trước và lại nêu vấn đề
Pháp tham gia vào việc đầu hàng của
Nhật. Tôi đă nói thẳng ra rằng tôi biết
không có kế hoạch cho người Pháp tham
gia vào việc giải giáp cũng như hồi
hương Nhật và cũng nhắc lại cho Sainteny
hay là trước khi chúng tôi rồi Côn Minh,
tôi đă được báo cho biết rơ là nhiệm vụ
nói trên đă chỉ được giao cho người Anh
ở miền Nam và người Trung Quốc ở miền
Bắc.
Sainteny tiếp tục nêu vấn đề và chất vấn
là người Pháp có c̣n được coi như là một
nước thành viên trong Đồng minh nữa
không. Tôi khẳng định là c̣n, nhưng nhận
xét là rơ ràng v́ lư do tiếp tế hậu cần
mà Pháp đă không tham gia vào chiến
tranh Thái B́nh Dương và tức là cũng đă
không tích cực tham gia vào cuộc chiến
tranh chống Nhật. Hơn nữa, theo hiệp
định Postdam, mà tướng De Gaulle và Bộ
Tổng tham mưu Pháp đă biết, th́ nhiệm vụ
giải quyết với Nhật ở Bắc Đông Dương đă
được đặc cách giao riêng cho Tưởng. Đúng
là người Pháp đă bị gạt ra ngoài, nhưng
cả người Mỹ, Anh và Hà Lan cũng thế.
Lời đáp thẳng thắn và trung thực này đối
với một câu hỏi đầy tính khiêu khích của
Sainteny đă bị nhiều nhà văn xuyên tạc
đi cho là người Mỹ đă “nhẫn tâm” và
“chống đối” và cũng đă có những hậu quả
lâu dài trong mối quan hệ Mỹ - Pháp(6).
Tôi biết rằng Sainteny chẳng thích thú
ǵ câu trả lời của tôi, và ông đă gây
cho tôi cái cảm giác là ông cho rằng
việc Pháp bị gạt ra ngoài là do lỗi tại
người Mỹ, và đặc biệt là do tôi.
Tôi đă không thể nào
làm khác được trong khi cả Paris,
Calcutta và Trùng Khánh cũng không tán
thành vai tṛ tự đặt cho ḿnh là đại
diện của nước Pháp ở Đông Dương của ông
ta. Đă nhiều lần ông ta thú nhận
với tôi, điều mà sau này ông đă viết
trong hồi kư(7)
- rằng ông hoàn toàn không nhận được
nhiệm vụ chính thức hoặc chỉ thị về Đông
Dương, và mặc dù ông đă nhiều lần kêu
gọi Trùng Khánh, Calcutta và Paris xác
định quy chế chính thức của ông ở Hà
Nội, nhưng ông đă chẳng bao giờ nhận
được trả lời và chức quyền mà ông mong
muốn.
Rơ ràng là Sainteny và bộ tham mưu của
ông đă nuôi dưỡng những t́nh cảm đối lập
mạnh mẽ đối với OSS và nước Mỹ, những
t́nh cảm mà từ 1945 đến 1954, qua những
ẩn ư và những lời nói cạnh, được truyền
tới các giới quan chức Paris (De Gaulle,
Messmer, Massu, Hoppenot…) như là một sự
“phản bội của Mỹ” đối với một “đồng minh
trung thành”(
8 ). Trong một số nhận xét của cơ quan
tham mưu của ông gửi cho người Pháp ở Hà
Nội, nhóm t́nh báo DGER đă gán tất cả
những sự rối ren của người Pháp ở Đông
Dương cho một âm mưu của Đồng minh nhằm
gạt Pháp ra khỏi Đông Dương. Những lời
giải thích ngược lại của tôi đều không
có giá trị.
Nhân việc có mặt Lư Hán ở Hà Nội,
Sainteny hỏi tôi Mỹ sẽ có phản ứng ǵ
trước cuộc điều đ́nh Pháp - Hoa để cho
quân đội của Alessandri trở lại Bắc Kỳ.
Tôi bảo ông rằng Hoa Kỳ chắc chắn sẽ
không có ǵ phản đối.
Đó là một vấn đề của
Trung Quốc. Tưởng có toàn quyền
hành động, c̣n người Mỹ,
theo quy
định, thuộc quyền chỉ huy quân sự của
ông. Tôi đảm bảo với Sainteny rằng nếu
Tưởng cho phép Wedemeyer dùng máy bay Mỹ
chở quân Pháp sang Bắc Kỳ, th́ Bộ chỉ
huy Mỹ sẽ thi hành.
Nhưng tôi nhấn mạnh đây phải là một sự
thoả thuận Pháp - Hoa giữa những người
cầm đầu các nước ở Paris, Washington và
Trùng Khánh.
Theo ư tôi, những cuộc dàn xếp ở địa
phương chỉ đầy cạm bẫy và trắc trở.
Sainteny không phải
không đồng ư với sự phân tích của tôi,
nhưng vẫn hy vọng cứu văn được sự rút
lui nhanh chóng một ḿnh của Pháp ở miền
Bắc, một công tác không có khả năng thực
hiện được.
Như là một thủ thuật
của ông gần đây, Sainteny kết thúc cuộc
viếng thăm bằng cách nêu thêm một khó
khăn. Ông ta
nói nhỏ cho biết, ông lo ngại người
Trung Quốc, nhất là người của Lư Hán,
xúi người Việt “bắt cóc” ông. Lư
do nêu ra là v́ ông đă hoạt động chống
Trung Quốc. Tôi cho
ông đă quá cường điệu, nhưng chúng tôi
cũng sẽ để ư giúp ông.
Đi sâu vào vấn đề nhận xét của Sainteny
chung quanh
cuộc thoả hiệp Pháp - Hoa, th́ ư kiến
của Sainteny về vấn đề bắt cóc tỏ ra là
phi lư.
Tôi xem nó chỉ như là một
mưu mô nhằm làm áp lực đối với chúng tôi
để đưa thêm quân Pháp tới, nhưng tôi
cũng báo cáo nỗi lo ngại của Sainteny
với Côn Minh và gợi ư cũng không nên coi
trọng vấn đề này cho đến khi có được
chứng cứ mới.
CUỘC ĐẤU ĐÁ - LƯ
HÁN CHỐNG LẠI QUỐC DÂN ĐẢNG TRUNG QUỐC
Nhiều
vấn đề nổi lên san khi Lư Hán tới đă làm
cho tôi gặp rất nhiều khó khăn trong vị
trí một sĩ quan chính trị cao cấp nhất ở
đây. Người Trung Quốc đến để giải giáp
quân Nhật, nhưng cho đến ngày 16-9 tôi
vẫn chưa moi được ở Lư Hán hay bộ tham
mưu của ông kế hoạch và thời hạn đế xúc
tiến việc đó. Trong khi người Nhật tiếp
tục giữ thái độ “bàng quan” của những
khán giả đă bị chinh phục, chờ đợi hảo
tâm của Đồng minh, th́ ba hoặc bốn ngàn
trong số họ đă biến đi theo phong trào
bí mật Liên Á. Những tin tức từ Sài G̣n
đă kích động mạnh tinh thần chiến đấu
của người Pháp, nhưng Lư Hán vẫn từ chối
đến cả việc nói chuyện với họ.
Người Việt Nam đang
đấu tranh đă đưa tất cả những sự tranh
chấp của họ lên sân khấu chính trị địa
phương. Mọi
vấn đề càng trở thành phức tạp ở Hà Nội.
Tôi nhẹ người khi được tin tướng
Gallegher đă lên đường sang Hà Nội.
Không phải v́ ông ta có thẩm quyền về
các vấn dề chính trị, nhưng v́ ít ra th́
ông cũng có cấp bậc để công tác thuận
lợi hơn với người Trung Quốc và người
Nhật. Nhiệm vụ của ông ta thuần tuư chỉ
là giúp cho tướng Lư Hán trong việc chấp
nhận sự đầu hàng và hồi hương quân Nhật
đă bị tước vũ khí.
Chiều 16-9, tôi đón ông ở sân bay, nhưng
ông đă làm tôi ngạc nhiên khi ông cho
hay là Trùng Khánh hỏi về việc tổ chức
buổi lễ tiếp nhận đầu hàng chính thức ở
Hà Nội. Vấn đề rắc
rối là ở chỗ vai tṛ của người Pháp và
sự có mặt của người đại diện ngoại giao
cấp cao nhất của Nhật, Thống chế bá tước
Terauchi lại ở Sài G̣n.
Quốc dân Đảng (Trung
Quốc) rất nhạy cảm với địa vị của Pháp
trong khối các nước Đồng minh và sự có
mặt của họ ở châu Á là việc Trung Quốc
hoàn toàn không thể không đếm xỉa tới.
Tổ chức ngày lễ đầu
hàng chính thức ở Hà Nội mà không có mặt
người Pháp tham dự có thể bị Paris coi
như là một sự xúc phạm và Tưởng rất
không muốn hứng chịu lấy điều nguy hiểm
đó.
Cũng c̣n có vấn đề
Tổng hành dinh Tập đoàn quân phương Nam
của Nhật ở Sài G̣n.
Tưởng c̣n đang bị
nhức nhối về vấn đề người Anh ở Hongkong
nên không muốn bị lôi kéo vào một cuộc
tranh chấp khác về pháp lư với người
Anh. Đúng ra, việc đầu hàng của
quân Nhật ở Đông Dương sẽ phải được
Térauchi, với tư cách Tư lệnh tối cao
của Nhật tiến hành, nhưng ông lại ở
trong chiến trường thuộc Mounbatten. Đă
có gợi ư là Téranchi đầu hàng với người
Anh theo đúng như quy định trong bản
Mệnh lệnh chung số 1 và cho phép
Tsuchihashi ở miền Bắc giao nộp vũ khí
cho người Trung Quốc và người Trung Quốc
sẽ phụ trách cả việc hồi hương quân Nhật
thuộc quyền Tsuchihashi ở phía bắc vĩ
tuyến 16. Về nguyên tắc th́ việc thu xếp
như thế cũng có thể chấp nhận được đối
với Trùng Khánh; Tưởng cũng có thể phải
thoả măn với một cuộc đầu hàng về mặt
“hành chính” và để cho Mounbatten tiến
hành buổi lễ chính thức của ông ta ở Sài
G̣n, mà ở đó th́ người Pháp chắc chắn sẽ
được tham dự. Nếu như thế, bản bị vong
lục của Trung Quốc gửi cho phái đoàn
Nhật ở Khai Viễn ngày 2-9 cũng đủ làm cơ
sở để cho xúc tiến công việc.
Nhưng Lư Hán bất
măn. Ông cảm
thấy ḿnh bị xếp xuống vai tṛ của một
người “quản lư hành chính” so với Trương
Phát Khuê, vốn được giao nhiệm vụ quân
sự tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật một
cách ầm ĩ ở Quảng Đông.
Lư Hán bị mất mặt.
Ông phản đối với
tướng Hà Ứng Khâm và khẩn khoản yêu cầu
phải tổ chức một buổi lễ chính thức ở Hà
Nội. Tướng Hà đồng ư nhận sẽ xem
xét đề nghị của Lư Hán nhằm để tránh
không phải xáo trộn kế hoạch nhằm gạt bỏ
Thống đốc Long Vân khỏi căn cứ địa của
ông ta ở Vân Nam.
Nhưng cho đến ngày 17-9, Hà Nội vẫn
không nhận được quyết định ǵ về vấn đề
này.
Thêm một vấn đề gay
cấn khác.
Tướng Gallagher nhận được chỉ thị của
Hành dinh Chiến trường, yêu cầu Lư Hán
cho máy bay chở tướng Alessandri tới Hà
Nội. Lư Hán
lại cực lực phản đối để cho Trùng Khánh
thấy rằng Alessandri chỉ có thể tới Hà
Nội nếu như buổi lễ tiếp nhận đầu hàng
được tổ chức tại đó. Lư Hán chưa
nhận được chỉ thị tổ chức buổi lễ nên
ông cho rằng không có lư do chính đáng
để Alessandri có mặt tại Hà Nội, nếu
không th́ việc đó chỉ kích động rối
loạn.
Gallagher báo cho Lư
Hán biết là mệnh lệnh của Trùng Khánh là
dứt khoát phải tôn trọng. Lư Hán
vẫn không lay
chuyển. Nhưng về sau, Gallagher đă cho
tôi hay là cũng đă
thu xếp được cho Alessandri và
một người Pháp khác được đi tới Hà Nội
vào ngày 19-9.
Gallagher và tôi đă thảo luận về việc
Alessandri có mặt ở Hà Nội và tôi đồng ư
với Lư Hán là việc đó gây ra nhiều vấn
đề, nhưng không phải như Lư Hán quan
niệm. Tôi nêu ra mối thâm thù đă có từ
lâu giữa Lư Hán và Alessandri, và lư do
để nghĩ rằng người Trung Quốc muốn ở lại
lâu dài chẳng qua cũng chỉ nhằm để cướp
đoạt đất nước này một cách triệt để và
có lợi nhất cho Long Vân. Nếu Alessandri
về trong lúc này, ông ta có thể kéo
theo số quân
Pháp ở Trung Quốc đi cùng hoặc từ Sài
G̣n ra, nhưng ông ta cũng có thể có ư đồ
xin giải thoát cho số tù binh hiện c̣n ở
trong Thành. Là một thủ lĩnh theo phái
De Gaulle, chắc chắn Alessandri sẽ có
mưu đồ cho xúc tiến nhanh việc Pháp
chiếm đóng lại Việt Nam và người Trung
Quốc phải rút sớm về nước, và như vậy là
trực tiếp chống đối lại với kế hoạch của
Lư Hán. Gallagher
cảm ơn về những nhận xét của tôi và nói
ông sẽ cảnh giác đối với các cuộc vận
động của Pháp.
Gallagher có hỏi về
vai tṛ của Sainteny, và tôi dă kể lại
các hoạt động của nhóm t́nh báo Pháp từ
khi chúng tôi tới Hà Nội.
Sainteny cũng đă yêu
cầu được gặp Gallagher và tôi đă khuyên
Gallagher không nên nhận lời trong lúc
này, tốt nhất nên chờ cho đến khi
Alessandri tới, tuy ông ta cũng chẳng có
chức vụ chính thức hoặc một chỉ thị
chính trị cơ bản nào của Paris.
Gallagher đă đồng ư.
MỘT CUỘC TRAO ĐỔI VÔ VỊ
Tôi báo cho Sainteny biết
tin Alessandri sẽ đáp máy bay tới Hà
Nội, và cơ quan DGER có được 2 ngày để
chuẩn bị bố trí đón.
Đoàn thể cộng đồng người Pháp trong một
trạng thái hết sức phấn chấn v́ họ biết
là tướng Alessandri sẽ đến để “nắm lại
t́nh h́nh”. Alessandri và Leon
Pignon(9) tới sân bay Gia Lâm, đúng vào
giữa lúc cuộc thương lượng ở miền Nam
tan vỡ, và Cédile đă có một cuộc họp báo
với một đường lối cứng rắn.
Họ đă được đưa nhanh
chóng về hành dinh của Sainteny mà không
ai hay.
Nhờ có việc
Alessandri và Pignon tới nên hoạt động
của nhóm Sainteny trước đây ở mức thấp
nay đă có một quy mô mới.
Thái độ ngoan cố của
Cédile và Gracey ở Sài G̣n đă gợi cho
Sainteny biết đây là lúc thuận lợi để mở
cuộc nói chuyện với Hồ Chí Minh.
Ông ta báo cho ông Hồ biết Pháp hoan
nghênh một cuộc hội nghị giữa ông Hồ và
một đại diện Pháp ở Ấn Độ. Ông Hồ đă từ
chối: ông không muốn gặp một người trung
gian mà phải là De Gaulle.
Alessandri đành phải
gác vấn đề đó lại sau. Ông thuyết
phục Đô đốc Thierry D'Argenlieu(10), Cao
uỷ Pháp đă được chỉ định cho Đông Dương,
lúc đó ở Calcutta, nên gặp một đại diện
của ông Hồ. Nhưng ông Hồ không được hỏi
ư kiến trước! Nên khi Alessandri báo cho
ông Hồ biết một lần nữa là D'Argenlieu
muốn gặp ông, ông Hồ vẫn cho rằng đó chỉ
là một cuộc hội nghị giữa Pháp và đại
diện của ông nên đă yêu cầu Cựu hoàng
Bảo Đại thay mặt cho ông.
Ngày 22-9, tôi cùng
với tướng Gallagher đến gặp ông Hồ v́
ông muốn hỏi ư kiến chúng tôi về đề nghị
gặp gỡ của Pháp.
Chúng tôi phát biểu,
tốt hơn hết là hai bên nên có một cuộc
nói chuyện trực tiếp với nhau, nếu ông
không đồng ư với những ǵ mà người Pháp
đề nghị th́ ông có quyền không chấp
nhận. Ông Hồ cho biết ông cũng đă
có trao đổi vấn đề này với tướng Lư Hán,
v́ cuộc gặp có liên quan đến việc đi lại
bằng máy bay mà chỉ Trung Quốc mới có
khả năng giải quyết vấn đề. Lư Hán tránh
mặt trong lúc này, nhưng cho biết ông ta
có thể thu
xếp cho một máy bay trong ṿng 10 hay 12
ngày. Gallagher và
tôi cho rằng cuộc gặp gỡ cũng chẳng có
hại ǵ và chắc ông Hồ sẽ chấp nhận.
Tôi nói thêm, nếu
Pháp thực hiện được lời mời đă được đưa
ra th́ điều đó cũng có thể coi như là
một dấu hiệu tỏ ra Pháp có ư định công
nhận chính phủ độc lập của Việt Nam.
Ông Hồ nắm lấy ư này
và quyết định thôi không cử người thay
mặt mà tự ḿnh sẽ đến hội nghị.
Nhưng ông sẽ chỉ tới gặp nếu như người
Pháp đồng ư hội họp ở Trung Quốc và có
một quan chức Mỹ tham gia như quan sát
viên.
Sau này, khi có những tin tức dữ dội về
vụ giết hại Dewey, tôi đến gặp ông Hồ,
và Hoàng Minh Giám đă kéo tôi ra một nói
để nói cho biết về câu chuyện Pháp mời
và cuộc gặp gỡ đă xảy ra. Giám, với danh
nghĩa Bộ trưởng Ngoại giao, đă nhận dược
một giác thư của Alessandri nói về một
cuộc gặp gỡ giữa “Pháp và dân An Nam do
đảng Quốc gia Cách mạng đại diện”. Bản
giác thư đă
chẳng nói ǵ đến cuộc gặp gỡ giữa ông Hồ
và D'Argenlieu, mà chỉ có hàm ư nói đến
việc ông Hồ được mời.
Giám rất lo lắng
trước sự mê muội không thể tưởng được
này của người Pháp. Ông cho rằng
người Pháp nếu không phải là láo xược
th́ cũng là đần độn, nên trong các tầng
lớp nhân dân, mới chọn một phần tử Việt
Nam Quốc dân Đảng đă chết rồi làm người
đại diện cho nhân dân Việt Nam. Nhưng dù
sao đi nữa th́ điều đó chỉ biểu thị sự
ngoan cố của Pháp trong việc từ chối
không chịu công nhận nền độc lập của
Việt Nam, khi họ đă không mời ông Hồ với
tư cách là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời
Cộng hoà Việt Nam tới dự họp.
Cuộc trao đổi vô vị
này đă làm cho ông Hồ, hơn bao giờ hết,
hoài nghi về sự thành thật và các ư đồ
của Pháp. Nó
cho ông thấy Pháp chỉ muốn lợi dụng ông,
chứ không quan tâm điều đ́nh một cách có
thiện chí. Ông Hồ đă coi như
không biết đến bản giác
thư, và mọi
kiểu điều đ́nh của Alessandri đă không
mang lại kết quả.
NHỮNG BỨC THƯ ỦY
NHIỆM KHÔNG THỂ CHẤP NHẬN ĐUỢC
Những
tin tức về bản tuyên bố số 1 của Gracey
lan tới Hà Nội một cách hết sức nhanh
chóng và đă khuấy động t́nh cảm dân
chúng Pháp đến cao độ.
Chỉ có lời kêu gọi
mạnh mẽ của Alessandri với cộng đồng
người Pháp và tù binh ở trong Thành mới
có thể duy tŕ được t́nh h́nh không để
cho bùng nổ.
Tướng Lư Hán bực dọc và đă báo cho người
Pháp, tuy chưa được chính thức công nhận
là ông ta sẽ không cho phép người Pháp
biểu dương sự đồng t́nh với các đồng bào
của họ ở miền Nam.
Người Việt Nam, Cộng
sản cũng như chống Cộng vẫn giữ được
thái độ b́nh tĩnh đáng khen, nhưng cũng
rất cảnh giác.
Riêng chỉ có người
Nhật tỏ vẻ trung lập một cách trơ tráo.
Tối hôm đó, tôi gặp cán bộ của ông Hồ,
và cùng nhau kiểm lại t́nh h́nh trong
ngày. Qua câu
chuyện, tôi được biết ngày hôm trước ông
Hồ có nhận được một thông báo của hành
dinh tướng Mounbatten yêu cầu báo cáo về
quân số và vũ khí của quân đội Việt Nam.
Đối với yêu cầu phi lư và xấc xược này,
ông Hồ đă chỉ thị cho Chu Văn Tấn(11) từ
chối không báo cáo và chỉ thị cho Giám
gửi một bản phản đối chính thức với danh
nghĩa của Chính phủ Việt Nam cho
Mounbatten. Đêm đó,
21 - 22 tháng 9, cũng là một đêm vô cùng
khó khăn.
Trong ngày, Gracey đă tuyên bố thiết
quân luật ở miền Nam, và suốt đêm đă
diễn ra những hoạt động không b́nh
thường ở Hà Nội. Không xảy ra bạo
lực, nhưng đă có một loạt các hoạt động
khẩn trương chuẩn bị, hội họp và, ánh
đèn thâu đêm ở Bắc Bộ Phủ. Người Âu th́
đi lại giữa các nhà thủ lĩnh Pháp. Cảnh
sát Việt Nam được báo động, đă chặn hỏi
một số người Âu và người Việt, nhưng
cũng không có ai bị bắt giữ.
Sáng hôm sau, tướng
Alessandri đến gặp tướng Lư Hán để yêu
cầu được công nhận là đại diện của Ge
Gaulle ở Hà Nội. Lư Nán tiếp ông
ta ở nơi trước đây là dinh của vị Toàn
quyền Pháp, nhưng gần như chỉ một phút
sau, ông đă rút lui, để cho Tham mưu
trưởng của ông, tướng Mă, làm việc với
Alessandri. Tướng Mă giải thích là người
đại diện duy nhất được uỷ nhiệm đối với
Chính phủ Trung Quốc và người duy nhất
được tướng Lư Hán công nhận là người
phát ngôn của Chính phủ Pháp và viên Đại
sứ Pháp ở Trùng Khánh.
Để xoa dịu
Alessandri, Mă báo cho ông biết nhiệm vụ
của Lư Hán là giải giáp quân Nhật và các
công tác có liên quan.
Ông sẽ không dính
líu ǵ tới các vấn đề chính trị cũng như
các cuộc xung đột Pháp - Việt.
C̣n đối với người
Pháp ở Việt Nam, trong thời gian chiếm
đóng, họ sẽ được đối xử như những người
ngoại quốc khác.
Sự từ chối này là
một điều thất vọng cay đắng nhất cho
Alessandri, v́ ông vẫn bám lấy ư nghĩ
rằng người Pháp phải được coi như là
Đồng minh, chứ không phải là người nước
ngoài. Ngón
trả thù của Lư Hán thực sự là ngọt đậm.
Trong hoàn cảnh nhục
nhằn như vậy, Alessandri lại phải chịu
đựng một sự hạ ḿnh hơn nữa. Một
sĩ quan của Sainteny đă t́m gặp một sĩ
quan tham mưu Trung Quốc để yêu cầu cung
cấp nhà ở, nơi làm việc, máy chữ…
Yêu cầu đă bị khước
từ v́ “không được phép”.
Alessandri phản đối.
Người Trung Quốc trả lời là tướng Lư Hán
coi những yêu cầu đó là “không cần thiết
cho người Pháp ở Việt Nam”.
Sau việc người Trung Quốc ở Hà Nội từ
chối, không công nhận Alessandri và
Sainteny là quan chức đại diện của Pháp;
cả hai đă t́m gặp Gallagher.
Ông này rất có thiện
cảm nhưng cũng chẳng giúp đỡ được ǵ.
Một lần nữa, Alessandri lại thất vọng v́
ông vẫn mong đợi một sự ủng hộ nào đó
của Mỹ. Sau cùng, Sainteny lại t́m đến
tôi để nhờ giúp đỡ về các mặt quản trị
hành chính. Nhưng
tôi cũng chịu thua v́ không có chỉ thị
nói phải giúp cho Pháp thiết lập một
hành dinh của Pháp ở Việt Nam.
Sau này, Gallagher
cho biết Sainteny yêu cầu cho một chuyến
bay để ông ta về Côn Minh và Gallagher
đă hứa giải quyết.
Ông hỏi ư kiến tôi.
Tôi nói rằng, mặc dù chiến dịch chống Mỹ
của Sainteny đă gây ra tai hại cho chúng
ta, tôi vẫn muốn khuyên ông ta ở Hà Nội
hơn là ở Trùng Khánh hay Calcutta; v́ ở
đó nhất định ông ta sẽ tiếp tục báo cáo
láo về t́nh h́nh Hà Nội và phá hoại uy
tín của Mỹ. Nhưng nếu như Gallagher tán
thành đề nghị của ông ta và để ông ta
đi, th́ ông ta cũng sẽ không đặt ra vấn
đề ǵ phản đối với OSS Côn Minh.
MỘT SỰ THỎA THUẬN NGẦM
Ngày nhục nhă cho Alessandri
và Sainteny cũng là một ngày đầy rẫy lo
phiền cho người Việt Nam: điện báo từ
Sài G̣n đưa ra tin Gracey đă cho chiếm
Khám Lớn và thả bọn lính dù của Cedile;
sau đó lại có tin số tù binh được thả ra
tấn công bừa băi vào người Việt Nam,
trên các đường phố Sài G̣n.
Ông Hồ sợ rằng người Trung Quốc có thể
theo gương
của Gracey ở Sài G̣n, nên ngay chiều hôm
đó ông đă gặp tướng Lư Hán.
Cuộc gặp gỡ tỏ ra
hết sức hữu nghị. Lư Hán nói với
ông Hồ về cuộc viếng thăm trước đó của
Alessandri và lời từ chối của cá nhân
ông không công nhận những người Pháp ở
Việt Nam làm đại diện chính thức cho
nước Pháp và đă không ấn định quy chế
chính thức cho họ.
Ông Hồ nêu vấn đề bản Tuyên bố số 1 của
Gracey và tŕnh bày mong muốn của ông
thấy không cần thiết phải áp dụng những
biện pháp tương tự ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Lư Hán đảm bảo với ông không có ǵ phải
lo ngại đối với việc người Trung Quốc
can thiệp vào việc điều hành công tác
chính quyền, nhưng chỉ với một điều
kiện: Trung Quốc sẽ phải can thiệp nếu
như chính quyền của ông Hồ tỏ ra có dấu
hiệu yếu đuối hoặc bất lực, không đối
phó được với việc duy tŕ trật tự trên
mọi lĩnh vực. Ông Hồ đảm bảo với Lư Hán
là ông có thể nắm chắc được t́nh h́nh,
dù cho có thể có những trở ngại nhỏ của
một số ít người Việt “Quốc gia quá hăng
hái”. Tất nhiên ở đây, có thể mỗi người
hiểu theo một
phách. Lư Hán đồng ư sẽ cho xúc tiến sự
ủng hộ “nhiều hơn nữa”.
Tối hôm đó, ông Hồ khẳng định với tôi là
ông đă yên tâm nhiều qua lời đảm bảo
không can thiệp của Lư Hán. Tuy vậy, ông
vẫn c̣n rất lo ngại đối với t́nh h́nh
Nam Kỳ. Ông được biết Leclerc đang trên
đường sang Việt Nam cùng với tàu bè và
vũ khí của Đồng minh.
Ông hỏi tôi tin tức
đó có xác thực không.
Tôi nói tôi không
rơ. Nhưng có một việc theo quan
điểm của tôi th́ hành động của người Anh
và thái độ tự tin của người Pháp ở Sài
G̣n cho thấy có khả năng có lực lượng
viễn chinh Pháp đang đổ bộ vào vùng đồng
bằng (Nam Bộ). Rơ ràng trong khi chúng
tôi nói chuyện với nhau, chẳng một ai đă
h́nh dung dược việc Cédile cho làm cú
đảo chính và chỉ ngày hôm sau đă thấy
Chính phủ Việt Nam bị bật ra khỏi Sài
G̣n, dân chúng bị tấn công ác liệt trên
đường phố và nhiều nạn nhân bị bắt bớ
hàng loạt.
Trong t́nh trạng báo động về những sụ
việc đang tiến triển đó, Côn Minh cũng
chẳng báo cho tôi biết chút tiến bộ ǵ
trong kế hoạch chuẩn bị cho việc đầu
hàng, nên tôi lại phải đến bàn với
Gallagher. Ông cũng chẳng được tin ǵ
của Trùng Khánh, nhưng cho rằng cuộc
điều đ́nh Pháp - Hoa c̣n đang tiếp diễn
và Trùng Khánh chưa muốn cho xúc tiến
ngay việc chiếm đóng của Trung Quốc cho
đến khi lừa được người Pháp phải chấp
nhận các vấn đề đă được đặt ra.
Lư Hán th́ lại không hài ḷng về việc
Trùng Khanh cứ tiếp tục im lặng và đă
báo cho Gallagher biết: nếu đến ngày
25-9 mà ông không nhận được chỉ thị ǵ
th́ ông ta sẽ tự hành động
theo ư kiến
riêng của ḿnh. Ông không quên việc
tướng Tsuchihashi cùng với các điều
khoản về đầu hàng đă được ấn định ở Khai
Viễn, người Nhật đă kư vào đó trước sự
hiện diện của người Mỹ, cho nên chỉ c̣n
có việc cho xúc tiến thi hành các điều
khoản nói trên.
Nhưng cuối cùng, ngày 24, tôi đă được
Gallagher cho biết Lư Hán đă được tướng
Hà Ứng Khâm cho chính thức tổ chức buổi
lễ đầu hàng. Cùng
ngày, tôi cũng nhận được một thiếp bằng
chữ Trung Quốc mời tới dự buổi lễ, với
tư cách là một “vị khách đặc biệt của
Chính phủ Trung Quốc”.
KẾ HOẠCH ĐỀ PH̉NG BẤT TRẮC CỦA
ÔNG HỒ
Cú của Cédile ở Sài G̣n đă làm bật ra
một tinh thần đoàn kết dân tộc mới giữa
những người Việt Nam. Mọi phe phái đă
nhất loạt gạt các bất đồng sang một bên
để đi theo
Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống lại
người Pháp. Những người Thiên Chúa giáo
ở Hà Nội có kế hoạch tổ chức một cuộc
mít ting để ủng hộ chương tŕnh giành
độc lập dân tộc của Việt Minh vào ngày
23-9, nhưng t́nh cờ cũng đúng vào ngày
hôm đó, tin tức về cú của Cédile lan tới
Hà Nội. Cuộc mít ting tự nhiên đă chuyển
thành cuộc biểu t́nh của người Công giáo
phản đối sự ngoan cố của Anh - Pháp và
ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Giám
mục người Việt J.B. Ṭng(12) thay mặt
những người Công giáo Việt Nam gửi một
bức thủ cho Giáo hoàng yêu cầu ban phúc
lành và đọc kinh cầu nguyện cho nền độc
lập dân tộc của Việt Nam.
Tôi thực không thể xác định được cuộc
biểu t́nh của Công giáo ủng hộ những
người Cộng sản đó là chân thật hay chỉ
là một sụ bày đặt. Nhưng rơ ràng là tôi
không thể t́m thấy một dấu hiệu ǵ là họ
chống lại ông Hồ. Tôi xúc động sâu sắc
trước thái độ biểu thị sự ủng hộ của họ
đối với sự nghiệp độc lập dân tộc, và
đặc biệt là sự trung thành tuyệt đối của
họ đối với ông Hồ. Trong những người
Công giáo đang xuống đường, không có vấn
đề bàn căi về chủ nghĩa Cộng sản, chủ
nghĩa Xă hội, hay một “chủ nghĩa” nào
khác. Vấn đề là độc lập dân tộc và tự do
thoát khỏi ách thống trị nước ngoài. Qua
việc ủng hộ phong trào Việt Minh, lănh
đạo Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam
muốn tách ḿnh và giáo hội ra khỏi một
thực tế lịch sử là họ đă làm công cụ cho
việc thiết lập và nuôi dưỡng chế độ
thuộc địa Pháp ở Đông Dương.
Việt Minh đă hoan nghênh sự ủng hộ đó,
tất nhiên không phải v́ triết lư tôn
giáo, mà v́ 2 triệu giáo dân cùng với
1.500 cha cố của họ, trong lúc này ít ra
th́ cũng không phải là một lực lượng đối
lập. Ông Hồ đă hết sức thận trọng tránh
không để xảy ra có bè phái về chính trị
và bao giờ cũng nhấn mạnh vào tính chất
mặt trận dân tộc rộng răi của Chính phủ.
Ông đă đặt một người Công giáo, Nguyễn
Mạnh Hà, làm Bộ trưởng Kinh tế trong
chính phủ đầu tiên của ông, và ông đă
hoan nghênh sự ủng hộ cá nhân của những
người Công giáo nổi tiếng như Ngô Tử Hạ,
một chủ nhà in lớn giàu có, và Giám mục
Ngô Đ́nh Thục, anh của Ngô Đ́nh Diệm.
Khi tin tức về những sự việc tồi tệ ở
Sài G̣n lan đến Hà Nội, người ta đă vây
kín cả phái đoàn OSS chúng tôi; nào là
các phóng viên báo chí địa phương và
ngoại quốc, nào là các viên chức của
chính phủ ông Hồ, của cơ quan tham mưu
Lư Hán và người của nhóm Alessandri,
Sainteny. Ai cũng muốn biết tin tức về
những ǵ đă xảy ra hoặc xác định các tin
tức do đài phát thanh đưa ra.
Knapp nghe được một
tin đồn là ông Hồ đă có ư định nghiêm
chỉnh đưa những người Quốc gia thân
Trung Quốc vào Chính phủ. Chúng
tôi đă phỏng đoán nhiều về điều đó và
được báo cáo là các đảng phái thân Trung
Quốc đă thu được nhiều thắng lợi ở các
địa phương khác ở miền Bắc, nhờ vào sự
giúp đỡ mạnh mẽ của Trung Quốc như ở
Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và Hải
Pḥng. Tin đồn quan
trọng nhất là ông Hồ đă chịu xuống nước
để nhường chỗ cho Nguyễn Hải Thần, người
được Tiêu Văn đỡ đầu. Các nguồn
tin thân cận với ông Hồ lại cho rằng
Việt Minh sẽ không phản đối Thần, và chỉ
giữ lại những Bộ quan trọng trong nội
các và ông Hồ sẽ đồng ư làm Phó chủ
tịch. Tôi đă đoán rằng Việt Minh cũng có
thể chấp nhận một sự hợp nhất như vậy
cốt để tên lănh tụ bù nh́n Trung Quốc có
thể cứu trợ về tài chính cho Chính phủ
đang bị phá sản và Nguyễn Hải Thần bất
lúc cũng có thể là một kẻ kém nhất trong
số bọn đang quấy nhiễu ông Hồ. Hơn nữa,
một sự thoả hiệp như vậy, chắc chắn sẽ
làm thoả măn được những yêu sách của các
viên tướng Trung Quốc đối với số tay
chân Việt Nam của họ.
Nhưng, lập luận của
tôi đă hoàn toàn sai.
Chiều hôm đó, ông Hồ
báo cho tôi biết ông muốn mời tôi đến
dùng cơm tối, khá trễ, khoảng 9 giờ.
Tôi biết ông bận rộn
suốt ngày nên cái giờ muộn mằn không
b́nh thường này làm tôi ngạc nhiên, Và
tôi đoán trước rằng ông có vấn đề quan
trọng ǵ muốn nói. Tôi đến ngay
và thấy ở đấy đă có nhiều người trong
ban tham mưu thân tín của ông, có cả
viên giám đốc cảnh sát. Họ cũng đến
ăn cơm cùng
chúng tôi.
Tất nhiên, câu
chuyện chính vẫn là t́nh h́nh Nam Bộ và
ảnh hưởng của nó.
Lần đầu tiên người
Việt Nam tiết lộ cho tôi biết mối quan
tâm của họ đối với các cuộc hành quân
xâm lược của Anh - Pháp vào đất Lào, ở
Vientiane và Savanakhet. Qua hoạt
động của OSS chúng
tôi(13), tôi biết đó là hoạt động
của lực lượng hỗn hợp Anh - Pháp 136
thuộc cơ quan t́nh báo Anh SOE.
Ông Hồ rất quan tâm
và nêu ra ư kiến là quân đội Pháp của
Leclerc có ư đồ muốn xâm nhập vào miền
Bắc Việt Nam thông qua vùng cạnh sườn
này. Ông đă ra lệnh cho tướng Chu
Văn Tấn tăng thêm lực lượng cho khu vực
phía nam dọc theo
sông Mekong và xử tử tất cả những người
Việt nào ăn tiền để làm tay sai cho
Pháp. Có lúc, ông Hồ đă đến mức phải nói
là một “cuộc chiến tranh không tuyên bố”
đă bắt đầu giữa Pháp và Việt Nam, và
“cuộc xung đột công khai cũng không c̣n
xa xôi nữa”.
Dần dần trong bữa
ăn, tôi mới biết được những tin tức khá
sửng sốt. Với
một giọng kín đáo, ông Hồ tiết lộ cho
biết nhân dân ông đang “triển khai kế
hoạch hoạt động chuẩn bị cho một cuộc
chiến tranh lâu dài chống người Pháp”.
Một cách b́nh thường, ông nêu ra ư kiến
là một “chính phủ bù nh́n Trung Quốc tạm
quyền” cũng có thể chấp nhận được. Điều
đó sẽ cho phép ông và Các trợ thủ chủ
yếu của ông “rút lui vào bưng biền để
lănh đạo cuộc đấu tranh”, trong khi đó
th́ một người, như Thần chẳng hạn, cùng
một số ít Việt Minh tiêu biểu sẽ ở lại
trong một chính phủ do Trung Quốc đỡ đầu
ở Hà Nội.
Kế hoạch của ông một
tên trúng hai đích. Nó vừa có thể
duy tŕ được sự ủng hộ của người Trung
Quốc và tức là của Đồng minh; vừa lại
cho phép ông Hồ và Việt Minh được tự do
hành động để đánh Pháp mà không gây
thiệt hại cho công cuộc đấu tranh giành
độc lập của Việt Minh. Tôi mạnh dạn hỏi
xem việc ông vắng mặt ở Hà Nội có lànm
cho dân chúng mất tinh thần và làm suy
yếu phong trào quần chúng
theo ông
không? Lần đầu tiên
trong tối hôm đó ông mỉm cười, trả lời
không có ǵ phải sợ. Ông đảm bảo
với tôi rằng ông được nhân dân tín nhiệm
tuyệt đối, bất kỳ họ có xu hướng chính
trị nào, và ông chắc rằng họ sẽ hoàn
toàn đi theo
ông v́ nguyện vọng độc lập dân tộc.
Bất chợt, với một
chút hài hước, ông thêm “ngay cả người
Công giáo”; lúc đó tôi cũng phải cười.
Phải chăng điều đó
có nghĩa là Chính phủ mới đă từ bỏ
chương tŕnh cải tạo xă hội chủ nghĩa
của họ, cũng như về mặt h́nh thức của
Chính phủ?
Ông
Hồ cho rằng mọi người sẽ vui ḷng chờ
đợi cho đến khi người Nhật, Trung Quốc
và người Pháp rời khỏi đất nước.
Câu chuyện lại chuyển
sang về vấn đề người Pháp, và ông đưa ra
ư kiến muốn kiểm soát chặt chẽ hơn nữa
số dân chúng Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
Ông hỏi ư kiến tôi về biện pháp cho tập
trung người Pháp lại trong những khu vục
xa các điểm dân cư đông đúc. Tôi không
ngờ ông đă có ư nghĩ này và cho rằng ông
muốn dùng người Pháp làm con tin nếu như
Leclerc tiến quân ra Bắc. Tôi nói đó sẽ
là một biện pháp quyết liệt, không phải
chỉ về mặt chính trị, mà c̣n cả về mặt
tổ chức hậu cần. Sẽ
đẻ ra vấn đề tập trung người, vận
chuyển, lán trại, tiếp tế và canh gác.
Mà điều này lại phải
giải quyết cho không những chỉ đàn ông
mà c̣n đàn bà, trẻ em, trẻ và già.
“Đúng như vậy”, ông
nói, “người Pháp đă làm những cái đó cho
người Việt trong nhiều năm rồi, và chúng
tôi cũng học tập được họ”. Tôi
đưa ra lư do là người Pháp sẽ không chấp
nhận bất kỳ một h́nh thức tập trung nào
một cách tự nguyện và do đó sẽ phải cần
đến lực lượng quân sự. Ông đồng ư, nhưng
nói thêm một cách gượng gạo: “chúng tôi
cũng có đủ nhân lực cần thiết cho việc
bảo vệ họ”.
Điều làm cho tôi lo
ngại là h́nh như ông Hồ nói về kế hoạch
tập trung của ông một cách hoàn toàn
nghiêm chỉnh.
Tôi gợi ư ông nên xem lại kế hoạch đó và
có thể cần phải trao đổi với tướng Lư
Hán và tướng Gallagher để tranh thủ ư
kiến của Trùng Khánh.
Tôi nói tôi không
đồng ư vấn đề này v́ tôi chắc chắn rằng
nó sẽ chỉ mang lại sự chống đối về chính
trị và ngoại giao có hại cho sự nghiệp
của Việt Nam.
Ông Hồ hứa sẽ xem xét lại.
Những lời đảm bảo cá nhân của Lư Hán
cũng như sự thống nhất đoàn kết về chính
trị mới đạt được đă cổ vũ rất nhiều cho
ông Hồ, nhưng ông vẫn trao đổi với tôi
điều làm ông lo lắng rất nhiều là việc
thiếu giao thông liên lạc giữa Tổng hành
dinh của ông và Lâm uỷ Nam Bộ, Giàu,
Bạch và Việt(14),
đại diện của Trung ương, hoặc đă không
nhận đọc chỉ thị của ông.
Dù sao đi nữa, ông
Hồ cảm thấy ḿnh bất lực trong việc tác
động đến t́nh h́nh của miền Nam.
Cả ngày hôm đó, ông
Hồ và Ban thường vụ bị mắc vào các cuộc
hội nghị với người Trung Quốc và với các
lănh tụ Quốc gia thân Trung Quốc.
Các chỉ thị về kháng chiến, quan trọng
hơn nữa là các chỉ thị cá nhân của Trung
ương gửi cho Lâm uỷ Nam Bộ chỉ được gửi
tới chỗ Giàu và Bạch kèm theo những chỉ
dẫn riêng của ông Hồ.
Trước khi tôi ra về, ông Hồ kéo tôi ra
bên cạnh và hỏi tôi xem có đúng là có
tin tôi sắp phải rời khỏi Hà Nội không.
Tôi trả lời đúng và giải thích là phái
đoàn t́nh báo của chúng tôi sắp hết
nhiệm vụ và tôi không c̣n lư do ǵ để ở
lại. Ông muốn biết
xem có những người Mỹ khác đến tiếp với
OSS không. Tôi cho ông hay là
chắc Bộ ngoại giao sẽ đặt một toà lănh
sự và một tổ chức ngoại giao nào đó.
Ông tỏ ư tiếc thấy
đoàn OSS phải ra đi, nói trắng ông rất
hiểu và thực tế, đă dự kiến trước sự kết
thúc mối quan hệ giữa chúng tôi.
Khi chúng tôi tiến
ra cửa, ông Hồ nói, “Tôi có thư chính
thức muốn gửi đến Tổng thống Truman”.
Tôi không nhận và
nhă nhặn gợi ư ông nên chuyển cho tướng
Gallagher cho hợp thức hơn.
Ông Hồ mỉm cười,
“đường nghi thức ngoại giao đă bắt đầu
rồi đấy”.
Chúng tôi chào tạm biệt và tôi trở lại
biệt thự. Tôi hỏi không rơ ông Hồ
có chuyển bức thư
cho Gallagher không.
Tôi được báo cáo là Giám và Giáp đă gặp
Tiêu Văn và Nguyễn Hải Thần, bàn về việc
có thể hợp nhất tổ chức với các đảng
phái Quốc gia, một nước đi hoàn toàn
theo đường lối của ông Hồ mà ông đă tiết
lộ ra là mong muốn lập ra một Chính phủ
bù nh́n dưới sự bảo trợ của Trung Quốc.
Nhưng dù sao th́ hoạt động không b́nh
thường ở Bắc Bộ phủ và dinh Toàn quyền
cũng đă kéo đến khuya, rất khuya trong
đêm đó, sau khi tôi đă trở về nhà
Ganthier.
Trưa ngày hôm sau, Gallagher mang
thư của ông
Hồ gửi Truman đến gặp tôi và nhờ tôi
chuyển cho Bộ ngoại giao. Tôi bảo với
Gallagher là tôi không thể gửi thẳng bức
thư cho
Washington, mà phải qua Đại sứ Hurley ở
Trùng Khánh.
Gallagher nhắc tôi là đại sứ Hurley đă
về Washington từ hôm trước.
Tôi nói viên đại
biện có thể phụ trách việc này và chúng
tôi đă điện cho Trùng Khánh.
Bức thư viết:
“Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, Cộng hoà
Việt Nam
Gửi Tổng thống Hoa Kỳ, Washington
Chúng tôi xin trân trọng báo để cho Ngài
rơ về những biện pháp sau đây của Tổng
tư lệnh vác lực lượng quân Anh đă tiến
hành ở miền Nam Việt Nam:
Một, cấm các báo chí;
Hai, cung cấp vũ khí và đạn dược cho dân
chúng Pháp;
Ba, tước vũ khí các lực lượng cảnh sát
Việt Nam;
Các biện pháp này là một sự vi phạm rơ
ràng đến những quyền tự nhiên của nhân
dân Việt Nam, đe doạ trực tiếp nền an
ninh trong nước, và là nhân tố làm mất
ổn định và hoà b́nh ở Đông Nam Á.
Chính phủ Lâm thời Cộng hoà Việt Nam
phản đối mạnh mẽ và yêu cầu Ngài can
thiệp với các nhà chức trách Anh băi bỏ
các biện pháp nói trên.
Chúng tôi sẽ rất biết ơn Ngài thuyết
phục người Anh đứng vững trên cơ sở các
nguyên tắc tự do và tự quyết do Hiến
chương Đại Tây Dương đề ra.
Kính
Hồ Chí Minh”
HÀ NỘI - CỬA NGƠ CỦA PHƯƠNG
ĐÔNG
Bây giờ Sainteny “t́m được”
tướng Gallagher nên đă “bỏ rơi” tôi,
nhưng Gallagher lại chỉ làm việc với ông
ta qua cơ quan tham mưu của ông.
Sáng hôm đó,
Sainteny đến cơ quan của Gallagher với
câu chuyện một “cuộc nổi loạn của dân An
Nam chống Pháp đang đe doạ nổ ra”.
Ông rất lo lắng v́ chỉ “đêm nay hay ngày
mai”, “bọn đầy tớ bản xứ có thể bỏ thuốc
độc hoặc tấn công người Pháp tại nhà”;
và Việt Minh đă chỉ thị cho nhân viên
của họ “chuẩn bị sẵn sàng để tiêu diệt
tất cả người Pháp”.
Tôi kể lại cho Gallagher nghe nội dung
của cuộc gặp gỡ của tôi với ông Hồ tối
hôm trườc, và ư kiến của tôi cho rằng,
mặc dù kế hoạch của ông Hồ vẫn c̣n giữ
kín, sự lo sợ của Sainteny, như thường
lệ, tuy gây xúc động mạnh, nhưng vẫn
không có căn cứ. Tôi
cho rằng nếu như người Pháp không chủ
động gây hấn trước th́ Việt Minh ở miền
Bắc chắc sẽ không có hành động chống lại
họ. Kết luận của tôi có căn cứ
vững vàng dựa trên mong muốn của ông Hồ
muốn ngăn ngừa đổ máu và ra mắt Đồng
minh với h́nh ảnh của một Chính phủ có
trách nhiệm. Tôi
nghĩ rằng ông Hồ muốn duy tŕ sự kiểm
soát của chính phủ ở Hà Nội càng lâu
càng tốt, ngay cả khi phải có một cái
“b́nh phong thân Trung Quốc”. Nếu
Việt Minh xúc tiến một hành động chặn
trước, ông Hồ biết rằng Lư Hán sẽ không
ngồi yên, mà sẽ dùng lực lượng quân sự
để đàn áp mọi cuộc gây rối trật tự, và
như thế, địa vị người quản lư chủ yếu ở
miền Bắc của ông Hồ sẽ bị sụp đổ.
Buổi sáng c̣n thanh thản, nhưng buổi
chiều th́ tin tức từ Sài G̣n đến tới tấp
qua các báo cáo khẩn cấp, thông báo đặc
biệt: “cháy lớn”, “nổi loạn”, “bắn
súng”, “bắt bớ”, “bắt cóc”…; nên ở Hà
Nội đă có một số triệu chứng hoang mang.
Một vài gia đ́nh Pháp sơ tán, nhiều hàng
hoá quư giá biến khỏi cửa hiệu,…
Các Bộ Quốc pḥng và
Tuyên truyền cho chuyển hồ sơ tài liệu
và khí tài thông tin về các địa điểm bí
mật. Các cơ quan khác của Chính
phủ cũng nhanh chóng chuyển đồ đạc trên
những xe
riêng hoặc xe tải chạy bằng dầu.
Cuối buổi chiều hôm
đó, chúng tôi cho rằng tuy có những
chuyện hốt hoảng, nhưng thực sụ chưa
phải là hoang mang hoặc đă có cuộc sơ
tán lớn. Đến
nửa đêm, t́nh h́nh trở lại yên tĩnh, và
hôm sau thành phố lại có vẻ như b́nh
thường.
Việc đầu tiên tôi phải làm ngay sáng sớm
hôm sau, 25-9, là xác định xem Chính phủ
của ông Hồ c̣n có ở Bắc Bộ phủ không.
Chính phủ vẫn c̣n
đó. Người đầu
tiên tôi gặp là Trần Huy Liệu.
Tôi chưa kịp hỏi th́ ông đă cho tôi hay
là Bạch ra lệnh Tổng băi công ở Sài G̣n
và Trần Văn Giàu sẽ phong toả Sài G̣n
cho đến khi người Anh phải trao trả lại
chính quyền cho Lâm uỷ. Nhưng ông ngừng,
và với cái nh́n hóm hỉnh, ông chuyển
sang hỏi có phải tôi đă
thu xếp “giấy
đi đường” cho Sainteny không. Ông mới
được biết tin người đồng nghiệp Pháp của
chúng ta đang trên đường về Côn Minh.
Quả là như vậy, Sainteny đă có kế hoạch
rời Hà Nội vào chuyến bay 9 giờ, nói là
đă kết thúc công tác của M.5 ở đây.
Liệu và tôi cùng đến
cơ quan của Giảm. Ở đó đă nhận
được các tin tức về cuộc thảm sát ở khu
cư xá Cité Hérault.
Giám hết sức kinh hoàng. Lúc đó
tôi chưa được biết tin ǵ, v́ chưa tới 8
giờ sáng, mà tôi cũng chưa xem các điện
báo ban đêm.
Liệu đă nhanh chóng
báo cáo tóm tắt. Giám đảm bảo với
tôi là Hồ Chủ tịch rất xúc động và giận
dữ, và mong tôi hiểu rằng Việt Minh đă
không hề chỉ đạo, cũng như không hề tham
gia vào hành động tàn ác đó.
Liệu nghi đó có thể
là hành dộng của một trong các phái
chống Việt Minh nhằm làm mất uy tín
chính quyền Phạm Văn Bạch và gây khó
khăn cho những người Cộng sản.
Người đọc chắc c̣n nhớ là sau lúc đó mới
biết B́nh Xuyên đă gây ra vụ này, mà
động cơ chính là “tội ác cướp bóc” và
không bao giờ t́m thấy được những lư do
chính trị dù là nhỏ nhất. Nhưng sau này,
người ta cũng không sao có thể biết được
ai đă xúi giục gây ra cuộc thảm sát này
hoặc nên kết tội ai.
Trong ngày, t́nh
h́nh căng thẳng thêm. Sainteny đă
đi, nhưng toán “tuyên truyền” của ông ta
đă xuất hiện, ra sức động viên tinh thần
người Pháp, với những tin Leclerc chỉ
vài ngày nữa sẽ tới bờ biển Đông Dương;
Pháp đă tranh thủ được sự đồng t́nh của
chính phủ Trung Quốc cho hạm đội Pháp đổ
bộ vào Hải Pḥng; ở miền Nam, Anh đă ra
lệnh cho Nhật quét sạch du kích Việt Nam
ở Nam Kỳ, đặc biệt trong vùng Sài G̣n -
Chợ Lớn. Cộng đồng người Pháp ở đây đă
tin những câu chuyện này hoàn toàn là
thật. Người Việt
Nam, ngoài giới chính quyền tuy không
chấp nhận hoàn toàn, nhưng cũng thấy đầy
nguy hiểm.
Người Trung Quốc nghe ngóng và cố muốn
biết sự thật đến đâu và Pháp bịa đặt ra
đến đâu. Những người bạn Pháp của
chúng rơ ràng cũng không lơ là trong
cuộc vận động chống Mỹ của họ, và có khi
c̣n gia tăng thêm sau cú của Cédile.
Tôi đă điện cho
Heppner ngay trong buổi Sainteny đi Côn
Minh để Heppner biết và bàn với Sainteny
xem có thể làm việc ǵ không để kiềm chế
bớt những người của họ lại.
Hà Nội đă trở thành
một cái ǵ giống như một trung tâm của
những cuộc vận động quốc tế ngầm và bí
ẩn. Các nhà báo Mỹ, Anh, Pháp,
Trung Quốc, Hà Lan, Ấn Độ và Liên Xô đua
nhau kéo tới thành phố. Một cuộc chiến
tranh mới đang h́nh thành ở miền Nam và
Hà Nội là địa điểm khá yên ổn mà ở đó
người ta có thể quan sát và
thu nhặt được
nhiều tin tức và dư luận. Nhưng đó cũng
là một trung tâm quyền lực của người
Pháp, Trung Quốc, Việt, Nhật, Nga và Mỹ.
Khi đài Sài G̣n phát đi những tin tức về
mệnh lệnh của Gracey cho người Nhật “bắn
vào người Việt Nam” th́ ai cũng căm
phẫn, và người Việt ở tất cả các xu
hướng chính trị đều cảm thấy bị de doạ.
Người Nhật nhận thấy
ngay một làn sóng căm thù họ trỗi dậy ở
người Việt, và họ cho là họ bị oan trong
vai tṛ của những người đao phủ mới.
Người Pháp lại mưu
toan hợp lư hoá bản mệnh lệnh của Anh và
nói đó chỉ là một lời đe doạ chứ không
phải là điều để thi hành.
Những người Nga tôi
quen th́ cho đó thực sự là vô nhân đạo
và dồn dập nhờ tôi chuyển các điện phản
đối cho Trùng Khánh, Moskva và London.
Ngay cả người Trung
Quốc cũng bị báo động.
Tướng Lư Hán cho
người tới hỏi tôi xem báo cáo có thật
không, và tôi đă trả lời ông là OSS Sài
G̣n đă xác định.
Imai, người cận vệ
cũ của tôi, cũng khẳng định là có những
chỉ thị của Anh cho người Nhật ở miền
Nam, nhưng lại nói thêm điều rất đáng
ngờ là người Nhật sẽ thi hành lệnh của
Gracey một cách đến cùng. Imai
cho tôi hay là Thống chế Bá tước
Terauchi đang ốm, và viên Tham mưu tưởng
của ông, sau khi đă hỏi ư kiến của
Tsuchihashi, đă đồng ư thực hiện các chỉ
thị của Đồng minh “trong chừng mực”
không có ǵ trái với những điều Tokyo đă
chỉ dẫn.
Không nói ra một cách rơ ràng, nhưng
Imai đă cố gắng làm cho tôi hiểu rằng
Nhật sẽ làm mọi cách để duy tŕ trật tự
công cộng nhưng sẽ không giúp cho người
Pháp “tiêu diệt” đối phương. Anh ta miêu
tả quan niệm của Bộ chỉ huy tối cao Nhật
qua việc lập luận là quy chế tương lai
của Đông Dương không rơ ràng.
Không một nước Đồng
minh nào ở “cấp chính thức” đă ra lệnh
cho Nhật phải trả lại Đông Dương cho
người Pháp, hay cho một nước nào khác.
V́ vậy để cho bị lôi
cuốn vào cuộc tranh chấp giữa người Pháp
và người Việt là một điều không đúng với
phương hướng các chỉ thị nhận được từ
Tokyo.
Điều Imai đă không nói thẳng ra là người
Nhật, hay ít nhất là một số phần tử Liên
Á có thế lực ở Tokyo cũng như ở Đông
Dương vẫn c̣n ư nghĩ là ảnh hưởng của
người Âu ở châu Á là đáng nguyền rủa.
Họ muốn Việt Nam
phải được trả lại cho người Việt Nam, và
cũng có thể cho người Trong Quốc cho đến
khi nào ảnh hưởng của người da trắng bị
loại trừ.
Cuộc vận động chống Mỹ của Nhật mà tôi
đă chứng kiến đă hỗ trợ cho lư lẽ của
tôi.
Tôi đă không thể làm
được ǵ hơn ngoài việc báo cho OSS Côn
Minh biết. Sự thật là đúng vào
ngày xảy ra cuộc thảm sát ở khu cư xá
Cité Hérault, cả Dewey và tôi đều nhận
được thông báo là Tổng thống Truman ngày
20-9 đă kư mệnh lệnh 9620 cho giải thể
Cục t́nh báo Chiến lược OSS kể từ ngày
1-10-1945.
LẠI ĐẤU ĐÁ NHAU - LƯ HÁN
CHỐNG LẠI QUỐC DÂN ĐẢNG
Chiều
tối 26-9, Gallagher báo cho tôi biết là
t́nh h́nh đă có những bước phát triển
hoàn toàn mới.
Ông nhận được chỉ
thị của hành dinh Chiến trường phải t́m
hiểu việc Lư Hán và cơ quan tham mưu
Trung Quốc giúp người Pháp thiết lập một
chính quyền Pháp ở Hà Nội.
Chỉ thị không nêu rơ
khi nào và bằng cách ǵ công việc đó
phải được hoàn thành.
Gallagher đă cho
thảo luận với Lư Hán nhưng ông này kêu
là không nhận được chỉ thị nào như vậy
mà cũng chẳng dự kiến sẽ có việc như
vậy. Ư kiến
của Gallagher cho rằng Lư Hán sẽ không
chấp hành, dù đích thân Tưởng ra lệnh.
Trong trường hợp đó,
Tưởng sẽ phải đối phó với sự chống đối
của Thống dốc Long Vân ở Vân Nam và cả
của Lư Hán ở Hà Nội.
Gallagher yêu cầu
tôi xác minh t́nh h́nh qua các nguồn tin
của tôi ở OSS và Đại sứ quán.
Tôi đă điện cho
Helliwell và Heppner, nhưng không được
trả lời.
Sau này, ở Côn Minh, tôi được biết Lư
Hán cũng có nhận được chỉ thị phải giúp
cho người Pháp đặt bộ máy cai trị dân
sự. Và ông cũng đă gửi một phái
đoàn(15) đến
Trùng Khánh để thuyết phục Quốc dân Đảng
chuyển chính sách từ thân Pháp sang thân
Việt Minh. Nhưng trước khi phái đoàn của
Lư Hán trở về Hà Nội th́ chính tướng Hà
Ứng Khâm cũng bay đến Gia Lâm, t́nh cờ
đúng ngay vào ngày máy bay của tôi đi
Côn Minh, 1-10. Tướng Hà đến Hà Nội là
để trực tiếp “khép quân đội Trung Quốc
vào kỷ luật”, và đối với người Pháp và
người Việt, th́ điều dó lại có nghĩa là
“để thuyết phục Lư Hán giúp đỡ người
Pháp”.
Với phong cách đặc
biệt Á Đông, Lư Hán đă đóng vai tṛ của
một chủ nhân ông thành thạo.
Ngay chiều hôm tướng
Hà tới, ông ta đă tổ chức một bữa tiệc
lớn để chào mừng tướng Hà, cả Hồ Chí
Minh và tướng Alessandri đều đă được mời
như những vị khách đặc biệt.
Đây cũng là lần đầu
tiên ông Hồ và tướng Alessandri đă ở
trong cùng một pḥng.
Tướng Hà lưu lại Hà
Nội vài ngày và đă gặp riêng người Trung
Quốc, người Pháp và người Việt.
Lư Hán vẫn tỏ ra không
lay chuyển
đối với vấn đề có mặt của người Pháp,
doạ sẽ rút quân của ông về Vân Nam.
Nhưng cuối cùng, ngày 4-10, giữa 2 viên
tướng đă đạt được một sự thoả hiệp;
trong đó Lư Hán đă đồng ư:
- Hoàn thành việc giải giáp quân Nhật
vào ngày 31-10.
- Tập trung tất cả quân Nhật để hồi
hương vào các địa điểm đă quy định vào
ngày 10- 11.
- Tiếp tục những cuộc điều đ́nh không
chính thức với Hồ Chí Minh nhưng tránh
đặt mọi quan hệ chính thức với Hồ Chí
Minh và Chính phủ Lâm thời, đừng để xem
đó là một sự công nhận chính thúc.
Lư Hán tỏ ra không
hài ḷng với cái cách mà Quốc dân Đảng
đối xử với người Việt Nam. Rơ
ràng ông thích có một nước Việt Nam độc
lập dưới sự bảo trợ của Trung Quốc.
Nhưng đúng ngày hôm sau (5-10), Tưởng đă
cho bung ra “sự cố Côn Minh” và cử Lư
Hán làm Thống đốc Vân Nam thay cho Long
Vân, c̣n Long Vân th́ lại được “đề bạt
lên” làm Viện trưởng Viện Cố vấn Quân
sự, một chức vụ gần như không có quyền
hành và bị Tưởng kiểm soát chặt chẽ ở
Trùng Khánh. Từ đó,
sự quan tâm của Lư Hán đối cới Việt Nam
đă giảm sút đi rơ rệt v́ ông ta phải tập
trung vào các vấn đề của Vân Nam, nên đă
uỷ nhiệm cho thuộc cấp giải quyết các
công tác chiếm đóng ở Việt Nam.
Ngày 8-10, Long Chi’i Han, một trong
những phái viên của Lư Hán gửi đi Trùng
Khánh, đă trở về Hà Nội, mang theo một
chỉ thị mới. Nội dung chỉ yếu của nó là:
không được can thiệp vào cơ cấu chính
trị và quản lư của Việt Minh, nhưng phải
nắm chắc con đường xe lửa Vân Nam phủ và
các thiết bị hải cảng; cho rút tất cả
quân đội Trung Quốc về Trung Quốc ngay
sau khi đă cho hồi hương quân Nhật;
không được chiếm đóng (tiếp quản) bất kỳ
cơ quan dân sự nào của Việt Nam; không
được tiếp quản nhà Ngân hàng Đông Dương.
Tôi nhận xét là những quyền lợi của
Trung Quốc ở Việt Nam vẫn là vấn đề quan
trọng hơn hết và Ngân hàng Đông Dương
vẫn là bất khả xâm phạm.
Nhưng tất cả các chi
tiết đó là dành cho về sau.
Đêm ấy tôi nghĩ ǵ
về buổi lễ tiếp nhận đầu hàng ở Hà Nội
sắp được tổ chức, sau khi Tokyo đầu hàng
đă 8 tuần. Thật khó mà thông cảm
và chấp nhận được rằng kẻ thù trước
kia của chúng
ta lại được người Anh ở miền Nam thúc
giục đi tấn công và giết hại người Việt
Nam ngay trên đất nước họ.
Đêm đó Sài G̣n đang
bị phong toả.
Tôi nhó lại lúc chúng tôi tới Hà Nội với
những mong ước cao xa của một thời đại
hoà b́nh sau chiến tranh. Tôi đă
hân hoan v́ lúc đó chưa biết tin Peter
Dewey đă chết trong một cái mương nước
ngay sáng hôm sau ở Nam Kỳ.
Chú thích
(1) Con của Nông Kinh Du,
một lănh tụ của Đồng minh Hội, bạn thân
của Nguyễn Hải Thần
(2) Đơn vị Anh đầu tiên do đại tá Cass
chỉ huy, chưa tới Sài G̣n ngày 6-9-1945
nên thực tế không có việc có hành động
của người Pháp chống lại người Việt được
Anh cho phép cho tới ngày 22-9-1945.
(3) Quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc
phần lớn được trang bị bằng vũ khí Mỹ
trong thời kỳ chiến tranh nên rất thuận
lợi cho việc “buôn bán đổi chác”.
(4) Hồ Chí Minh Tuyển tập
(5) Vơ Nguyên Giáp, “Những năm tháng
không bao giờ quên”
(6) B. Fall, “Con đường không vui”
(7) Sainteny, “Lịch sử”
( 8 ) B. Fall, “Con đường không vui”
(9) Quan chức thực dân, cố vấn chính trị
của tướng Alessandri
(10) Đô đốc G.L.M. Thierry D'Argenlieu
(1889-1964). Gia nhập hải quân từ 1909;
từ 1912 đến 1914, tham gia chiến dịch ở
Maloc dưới quyền Thống chế Lyautey; năm
1919 thuyền trưởng tàu tuần tiễu
Tourterelle; sau Thế chiến thứ nhất,
giải ngũ, chuyển sang ngạch dự bị, rồi
đi tu, thuộc ḍng Carmelite Thiên Chúa
giáo.
Tháng 8-1939, tái
ngũ, làm sĩ quan hải quân tham
mưu ở Cherbourg. Bị quân Đức bắt làm tù
binh tháng 6-1940; vượt ngục sang Anh
tham gia Hải quân Pháp tự do của De
Gaulle làm sĩ quan tuyên uư.
D'Argenlieu đă tham gia thắng lợi chiến
dịch chống lại Gabon và giành lại châu
Phi xích đạo thuộc Pháp cho phe De
Gaulle, được thưởng công và được thăng
cấp rất nhanh, có chân trong Uỷ ban Quốc
gia Pḥng thủ Đế quốc Pháp.
Năm 1941, được đưa
về London làm nhiệm vụ.
Ngày 5-8-1941, được cử làm Cao uỷ nước
Pháp tự do ở Thái B́nh Dương, đóng ở
Nouméa, Tahiti, với hàm Hạm trưởng. Ở
đây, ông đă xung đột với Bộ tư lệnh Hải
quân và Lục quân Mỹ ở New Calédonia v́
muốn duy tŕ chủ quyền Pháp chống lại nỗ
lực của Đồng minh chống Nhật - ông cũng
gây rắc rối cho người Anh nhưng đă bị
dân Calédonia cầm giữ.
Bị gọi về London,
nhưng được đề bạt Phó Đô dốc tháng
6-1942.
Tháng 5-1943, ông được cử chỉ huy Lực
lượng Hải quân chiến đấu Pháp, đóng ở
London trong khi hạm đội Pháp lại do Bộ
chỉ huy của tướng Giraud cai quản ở
Alger, do đó có sự rạn nứt trong Hải
quân Pháp.
Khi nước Pháp giải phóng (1944),
D'Argenlieu được cử làm Phó Tổng Tham
mưu trưởng Hải quân và
theo De
Gaulle vào Paris, dưới quyền đô đốc
Lemonnier. Đầu năm
1945, De Gaulle cử D'Argenlieu làm Phó
Chủ tịch Hội đồng Cao cấp Hải quân Pháp.
Ngày 17-8-1945, được cử làm Cao uỷ Pháp
tại Đông Dương, “đại diện ở Đông Dương
cho Chính phú Cộng hoà Lâm thời; có
quyền hành như Toàn quyền Đông Dương và
Tổng tư lệnh các lực lượng trên đất,
biển và trên không có căn cứ ở Đông
Dương”.
Ông được mô tả là
một người lạnh lùng, thô bạo, kiêu kỳ và
cũng rất độc đoán. Có người cho
ông là “một nhà ngoại giao tuyệt vời,
xuất sắc”, nhưng cũng có người cho là
“con gấu đáng tởm và là một người quỷ
quyệt nhất” - Nguồn ALUSNA, Paris.
(11) Bộ trưởng Quốc pḥng
(12) tức Giám mục Jean Baptiste Nguyễn
Bá Ṭng, giám mục tiên khởi Việt Nam
(13) Đại tá Daron Bank lúc đó đang ở
trong vùng này để điều tra về tội phạm
chiến tranh và đă báo cáo về các hoạt
động của đội 136 (SOI) của Anh - Pháp.
(14) tức
Hoàng Quốc Việt
(15) gồm Shao Pai Chang (Quân quản) và
Ling Ch’i Han (Ngoại vụ)
0 - 1 - 2 - 3 - 4 - 5 - 6 - 7 - 8 - 9 - 10 - 11 - 12 - 13 - 14 - 15 - 16 - 17 - 18 - 19 - 20 - 21 - 22 - 23 - 24 - 25 - 26 - 27 - 28 - 29 - 30 - 31 - 32 - 33
Valse Andy Wong . Viennese Valse . DrDance . Danptner . Dispatch
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures