at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài G̣n Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê B́nh . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xă Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài G̣n .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .B́nh Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢO CỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION
VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US History
with Ross Perot, Billionaire
with General Micheal Ryan
US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS .TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC- COVERTACTION
EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS - AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTO -CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEE- TASS- DAWN
NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM
QUỐC KỲ – QUỐC CA VIỆT NAM
SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ư NIỆM QUỐC CA TRONG LỊCH
SỬ NHƠN LOẠI
Ư niệm quốc ca đă từng xuất hiện một lượt với ư niệm quốc kỳ.
Từ ngàn xưa, loài người đă có dùng những bản nhạc hay bài ca để đánh
dấu sự có mặt của một nhơn vật lănh đạo. Nhưng thời trước, với chế
độ quân chủ, các bản nhạc hay bài hát loại này được xem là biểu
tượng riêng của cá nhơn nhà vua, nhá quí tộc hoặc nhà đại diện cho
các cự tộc cầm đầu cộng đồng. Về nội dung, nó có thể là một bài để
cho nhơn vật lănh đạo này cầu nguyện trời hay thần linh phù hộ ông,
một bài chúc tụng ông, đề cao công nghiệp của ông hay của gia tộc
ông, hay một bài mô tả cảnh thái b́nh thạnh trị, hoặc sự cường thạnh
của cộng đồng mà ông là chủ nhơn.
Chỉ với cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789, khi quốc gia được xem là
sở hữu của toàn thể mọi người sống trong cộng đồng mới có bài hát
được dùng làm biểu tượng chung cho toàn thể quốc dân. Người Pháp đă
dùng từ ngữ “hymne national” để chỉ loại bài hát này. Quan niệm của
người Pháp lần lần được người nước khác chấp nhận và người thuộc các
dân tộc nói tiếng Anh đă dùng từ ngữ “national anthem” khi nói đến
bài hát tiêu biểu cho nước ḿnh. Hymne national của Pháp hay
national anthem theo tiếng Anh đă được người Việt Nam chúng ta dịch
là quốc thiều nếu nhấn mạnh trên phần âm nhạc, hay quốc ca khi nhấn
mạnh trên phần lời nói.
Về phần thực hiện cụ thể th́ bản quốc ca đầu tiên trên thế
giới là bài Marseillaise của Pháp. Bài này do một đại úy công binh
Pháp tên Rouget de Lisle làm năm 1792 với tên là Chiến Ca Của Lộ
Quân Sông Rhin (Chant De Guerre Pour l’Armée Du Rhin). Nhưng sau đó,
nó được nổi tiếng khi được một tiểu đoàn chí nguyện quân gồm người
gốc ở thị xă Marseille hát trong lúc kéo từ Marseille lên thủ đô
Paris nên có tục danh là bài Marseillaise. Bài hát này đă được phổ
biến rộng răi ở Pháp từ năm 1792 và đến năm 1795, nó đă được chánh
thức chọn làm quốc ca của Pháp.
Sau khi người Pháp tung ra ư niệm quốc ca, nhiều nước khác đă
chấp nhận ư niệm này và đều có quốc ca. Có khi quốc ca được chọn là
một bài đă được dùng để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Đó là
trường hợp bài God Save The King (Trời Phù Hộ Đức Vua) hay God Save
The Queen (Trời Phù Hộ Nữ Hoàng) nếu quốc trưởng là một nữ hoàng.
Bài này đă được dùng ở Anh từ trước Cách Mạng Pháp, nhưng đến năm
1825 mới được chánh thức xem là quốc ca của nước Anh.
B/ CÁC BẢN NHẠC ĐĂ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC
THIỀU VÀ QUỐC CA
1/ Quốc ca xuất hiện đầu tiên: bản Đăng Đàn Cung của Hoàng Đế
Bảo Đại
Ở Việt Nam trước đây, cũng như ở các nước quân chủ cổ thời
khác, có những bản nhạc và bài hát được dùng trong các lễ long trọng
để đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Về ư niệm quốc thều hay quốc
ca, nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực
dân Pháp.
Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn
chưa có quốc thiều và quốc ca. Nam Kỳ lúc ấy là thuộc địa Pháp và
khi có các cuộc lễ lớn th́ bản nhạc được dùng là bài Marseillaise
của người Pháp. Ở Huế th́ triều đ́nh nhà Nguyễn có một số bản nhạc
được dùng khi có sự hiện diện của nhà vua. Nhưng các bản nhạc trên
đây không phải là quốc thiều hay quốc ca theo đúng nghĩa kim thời
của nó.
Đến thời Thế Chiến II, Hoàng Đế Bảo Đại mới ấn định quốc thiều
và quốc ca một lượt với quốc kỳ. Bản quốc thiều và quốc ca này là
bản Đăng Đàn Cung. Đó là một bản nhạc cổ điển của Việt Nam và được
triều đ́nh Huế dùng khi nhà vua ngự đến đài Nam Giao để đại diện cho
tất cả thần dân làm lễ tế trời. Lễ này ba năm cử hành một lần và
được xem là cuộc lễ quan trọng hơn hết của triều đ́nh. Do đó, bản
Đăng Đàn Cung được xem là bản nhạc trang nghiêm nhứt. V́ vậy, Hoàng
Đế Bảo Đại đă dùng nó làm quốc thiều và quốc ca trong khi cờ long
tinh được chọn làm quốc kỳ. Cũng như cờ long tinh, bản Đăng Đàn Cung
chỉ được dùng trên lănh thổ Đại Nam tức là Trung Kỳ và Bắc Kỳ, c̣n ở
Nam Kỳ bị xem là lănh thổ Pháp th́ bản Marseillaise vẫn phải được
dùng.
2/ Quốc ca thứ nh́: bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông thời
chánh phủ Trần Trọng Kim
Sau khi Nhựt đảo chánh Pháp và Việt Nam tuyên bố độc lập,
chánh phủ Trần Trọng Kim đă ban bố một chương tŕnh hưng quốc ngày 8
tháng 5 năm 1945, trong đó bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông của nhạc
sĩ Hùng Lân được chọn làm quốc ca. Lời ca của bản nhạc này như sau:
Việt Nam, minh châu trời Đông!
Việt Nam, nước thiêng Tiên Rồng!
Non sông như gấm hoa uy linh một phương,
Xây vinh quang ngất cao bên Thái B́nh Dương.
Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi.
Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.
Máu ai c̣n vương cỏ hoa.
Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà.
Giơ tay cương quyết,
Ta ôn lời thề ước.
Hy sinh tâm huyết,
Ta báo đền ơn nước.
Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,
Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.
Bản quốc ca này được dùng chung với Cờ Quẻ Ly ở Bắc và Trung
Việt, nhưng không được dùng ở Nam Việt v́ Nam Việt đă bị người Nhựt
thay người Pháp điều khiển một cách trực tiếp và chỉ được trả cho
triều đ́nh Huế lúc Hoàng Đế Bảo Đại đă sắp thoái vị rồi. Vậy, trong
thời kỳ từ khi người Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Mặt Trận Việt
Minh củng cố được chánh quyền của nó ở Nam Việt, cả lănh thổ này
không có quốc ca. Bài hát được người quốc gia ở Nam Việt dùng khi
đứng lên tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là bài Thanh
Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên của Thanh Niên Tiền Phong,
chung với cờ vàng sao đỏ cũng của tổ chức này. Như chúng tôi sẽ
tŕnh bày sau đây, bản nhạc của bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng
Gọi Thanh Niên này chính là bản nhạc của bài quốc ca mà chúng ta
đang dùng.
3/ Quốc ca thứ ba: bản Tiến quân ca của tập đoàn CSVN
Khi cướp được chánh quyền. tập đoàn CSVN đă dùng làm quốc ca
bản Tiến Quân Ca của nhạc sĩ Văn Cao. Bản nhạc này đă được họ bắt
đầu dùng khi tổ chức các đơn vị vơ trang đầu tiên và cho đến nay,
vẫn được họ dùng làm quốc ca.
4/ Quốc ca của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc
Khi Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc thành lập năm 1946, những người cầm
đầu phong trào Nam Kỳ Tự Trị đă dùng làm quốc ca một bản phổ nhạc
của mấy câu thơ đầu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc mà tác giả là Giáo Sư
Vơ Văn Lúamột giáo sư trung học thời Pháp thuộc. Sau đó, Nam Kỳ Cộng
Ḥa Quốc lại dùng một bản nhạc khác cũng của vị giáo sư này làm quốc
ca, nhưng về nhạc và lời, bản sau này cũng chẳng hơn ǵ bản trước.
Các bản quốc ca quái đản trên đây thật xứng với lá cờ sốt rét dùng
làm quốc kỳ cho Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc. Nó đă là một đề tài chế giễu
của người dân Nam Việt lúc đó và ngày nay nhắc lại nó, chúng tôi
không biết nên cười hay nên khóc v́ tuy hết sức lố bịch, nó đă được
dùng làm biểu tượng cho một tổ chức chống lại nền thống nhứt của
Việt Nam và đă gây nhiều đau khổ chết chóc cho những người tranh đấu
cho nền thống nhứt này.
5/ Quốc ca của chúng ta ngày nay
Bản quốc ca của chúng ta hiện nay có một lịch sử đặc biệt.
Người sáng tác bản nhạc là Lưu Hữu Phước, một cựu học sinh trường
trung học Pétrus Kư và cựu sinh viên Viện Đại Học Hà Nội. Nếu tôi
không lầm th́ bản nhạc này đă được soạn ra lúc Lưu Hữu Phước c̣n học
ở trường Pétrus Kư. Năm 1942, anh ta là sinh viên của Viện Đại Học
Hà Nội. Thời Thế Chiến II, Viện Đại Học này là Viện Đại Học duy nhứt
của các nước Đông Dương. Nó có khoảng 800 sinh viên trong đó phân
nửa là người Việt Nam, c̣n lại là người Khmer, người Lào, người Pháp
và ngay cả người một số nước láng giềng như Trung Quốc và các nước
Đông Nam Á Châu.
V́ là Viện Đại Học duy nhứt của Đông Dương nên Viện Đại Học Hà
Nội đă họp tập tất cả sinh viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái
quốc gia nhập các chánh đảng cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của
Việt Nam đă tổ chức những tổ bí mật tại đó. Đặc biệt Đại Việt Quốc
Dân Đảng có đảng trưởng Trương Tử Anh và một cán bộ nồng cốt là Anh
Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện Đại Học Hà Nội thời Thế Chiến II. Anh
Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi về nhạc nên được bầu làm Trưởng Ban Âm
Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương (Association Générale des
Étudiants Indochinois) và anh đă lănh nhiệm vụ bí mật hướng dẫn các
sinh viên hoạt động về văn hóa theo chiều hướng tranh đấu chống thực
dân.
Chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942, Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương
(THSVĐD) đă tổ chức tại Đại Giảng Đường của Viện Đại Học Hà Nội một
buổi hát để lấy tiền giúp các bịnh nhơn nghèo của các bịnh viện được
dùng làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Các sinh viên
Việt Nam đóng vai tuồng chủ động trong Tổng Hội đă quyết định nhơn
cơ hội này tung ra một bản nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên
Pháp là Marche des Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn
bản nhạc dùng vào công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đă đưa cho anh
một số bài nhạc do anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng
trong tất cả các dự thảo của Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta
hiện dùng làm quốc thiều có tánh cách khích động tinh thần tranh đau
hơn hết nên đă chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành Khúc. Sau đó, một
ủy ban soạn lời ca cho bản nhạc này đă được thành lập với Đặng Ngọc
Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Ḥa, Hoàng Xuân Nhị.
Lời ca này gồm ba đoạn với một điệp khúc chung:
I.
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng ḷng cùng đi, đi, mở đường khai lối.
V́ non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững ḷng chi sá.
Đường mới kíp phóng mắt nh́n xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.
(Điệp khúc)
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết ḷng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
II.
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết c̣n chưa xoá!
Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
B́nh bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn.
Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.
Ṇi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.
(Trở lại điệp khúc)
III.
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành tŕnh c̣n xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem ḷng son cho giống ḍng.
Là sinh viên vun cây văn hoá,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.
Đời mới kiến thiết đáp ḷng những ai
Hằng mong ta ra vững cầm tay lái.
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Trở lại điệp khúc)
Các lời ca tiếng Việt như trên đây được dùng cho sinh viên
Việt Nam và có mục đích thúc đẩy người Việt Nam tranh đấu cho đất
nước Việt Nam. Nhưng v́ như trên đă nói, Viện Đại Học Hà Nội lúc ấy
c̣n có nhiều sinh viên không phải Việt Nam nên ngoài lời ca tiếng
Việt, lại c̣n có lời ca tiếng Pháp để mọi sinh viên của Viện đều có
thể dùng nó được. Lời ca tiếng Pháp này dĩ nhiên là không thể nói
riêng về Việt Nam mà phải nói đến cả Đông Dương để cho phù hợp với
tên THSVĐD. Lời ca tiếng Pháp cũng do ủy ban nói trên đây soạn ra:
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’espace.
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère Patrie!
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de femmes promesses.
(Điệp khúc)
Te servir, chère Indochine,
Avec coeur et discipline,
C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ébranle notre foi!
Buổi hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đă đưa đến những kết
quả mỹ măn và bản Sinh Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des
Étudiants đă được chánh thức công nhận là bản nhạc của THSVĐD. Mùa
hè năm đó, Tổng Hội này lại tổ chức một buổi lễ măn khoá tại Nhà Hát
Lớn Hà Nội. Lần này, có Toàn Quyền Đông Dương và nhiều viên chức cao
cấp Pháp khác đến dự. Bản Sinh Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải
Quân Pháp tŕnh tấu. Âm điệu hùng hồn của nó đă làm mọi ngưoi khích
động và khi nó được trổi lên, tất cả mọi ngưoi tham dự lễ măn khoá
năm 1942 của Viện Đại Học Hà Nội, kể cả các viên chức cao cấp Pháp,
đều đă nghiêm chỉnh đứng dậy để chào nó. Sau đó, nó được phổ biến
khắp nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào dĩ nhiên là theo lời ca
Pháp. Về phía Việt Nam th́ các sinh viên chỉ lo đi học chớ không có
nhiệt tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời ca Pháp. Phần các
sinh viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của dân
tộc th́ đem ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ trong kỳ nghỉ hè năm đó với
lời ca tiếng Việt, nhứt là đoạn I nói trên đây. V́ thế, từ năm 1943,
bài Sinh Viên Hành Khúc đă được người Việt Nam ở cả ba kỳ biết.
Năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, Thanh Niên Tiền Phong
được thành lập ở Nam Việt và lấy bản nhạc trên đây làm đoàn ca. Tên
bản nhạc được đặt lại là Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh
Niên. Về lời th́ hai chữ “sinh viên” được thay bằng hai chữ “thanh
niên”. Lúc người Pháp trở lại chiếm Nam Việt cuối năm 1945, Thanh
Niên Tiền Phong đă huy động người ái quốc Việt Nam ở Nam Việt đứng
lên chống lại họ dưới lá cờ vàng sao đỏ và bản Thanh Niên Hành Khúc
hay Tiếng Gọi Thanh Niên.
Năm 1948, trong phiên họp lịch sử ở Hongkong giữa Cựu Hoàng
Bảo Đại và một số thân hào nhơn sĩ cùng đại diện các đoàn thể chánh
trị và tôn giáo ở Việt Nam, Anh Nguyễn Tôn Hoàn đă đề nghị lấy bản
nhạc của Thanh Niên Hành Khúc làm quốc thiều cho Quốc Gia Việt Nam.
Hội nghị đă đồng ư và tên bản nhạc được đặt lại là Quốc Dân Hành
Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Về lời ca, đoạn I của bài Thanh Niên
Hành Khúc nói trên đây đă được dùng, với hai chữ công dân thay cho
hai chữ thanh niên.
Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chánh phủ lâm thời Việt Nam được
thành lập với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng và Quốc Dân Hành
Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân được chánh thức dùng làm quốc ca. Lúc
Ông Ngô Đ́nh Diệm phế truất Quốc Trưởng Bảo Đại để thành lập chế độ
cộng hoà, Quốc Hội Lập Hiến được bầu năm 1956 đă có đặt vấn đề chọn
một bài quốc ca khác. Tuy nhiên, lúc đó, phần lớn các bản nhạc được
đề nghị dùng làm quốc ca đều không đủ tiêu chuẩn để được chấp nhận.
Bài duy nhứt được xem là xứng đáng làm quốc ca chính là bài Việt Nam
Minh Châu Trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân đă được chánh phủ Trần
Trọng Kim chọn làm quốc ca năm 1945. Tuy nhiên, hai Ông Ngô Đ́nh
Diệm và Ngô Đ́nh Nhu cuối cùng đă không chấp nhận việc dùng bản Việt
Nam Minh Châu Trời Đông làm quốc ca v́ một lư do đặc biệt.
Năm 1945, hai đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và Đại Việt
Quốc Dân Đảng (ĐVQDĐ) đă sáp nhập lại làm một với tên chung là Quốc
Dân Đảng và Đảng này đă lấy bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông làm
đảng ca. Sau đó, VNQDĐ và ĐVQDĐ lại tách nhau ra, nhưng cả hai đều
giữ đảng ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông. V́ biết được việc này nên
hai anh em Ông Diệm đă không chấp nhận bản nhạc này làm quốc ca. Rốt
cuộc, Quốc Hội Lập Hiến năm 1956 đă quyết định giữ lại bản Quốc Dân
Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng đổi lời lại như
sau:
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
Đồng ḷng cùng đi, hy sinh tiếc ǵ thân sống!
V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Ṇi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm trí,
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Điệp khúc)
Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho cơi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống
Xứng danh ngàn năm ḍng giống Lạc Hồng.
Bản nhạc và lời ca này đă được dùng suốt thời Đệ Nhứt và Đệ
Nhị Cộng Ḥa cho đến ngày nay.
C/ VẤN ĐỀ THAY ĐỔI QUỐC CA
Nói tóm lại, trừ các bản nhạc vô duyên đă được Nam Kỳ Cộng Ḥa
Quốc dùng làm quốc ca, nhưng thật sự không thể xem là quốc ca được,
dân tộc Việt Nam có cả thảy bốn bản nhạc xứng đáng với danh nghĩa
quốc ca là Đăng Đàn Cung, Việt Nam Minh Châu Trời Đông, Tiến Quân Ca
và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Bốn bản quốc ca này đă
được dùng song song với bốn lá quốc kỳ: bản Đăng Đàn Cung với cờ
long tinh, bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông với Cờ Quẻ Ly, bản Tiến
Quân Ca với cờ đỏ sao vàng và bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi
Công Dân với Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
1/ So sánh các bản quốc ca với nhau
Bản Đăng Đàn Cung là bản nhạc cổ điển Việt Nam thuộc loại nhă
nhạc. Loại nhạc này có tánh cách nghiêm trang và ôn ḥa, trái với
dâm nhạc là loại nhạc biểu lộ t́nh cảm một cách nồng nhiệt và chỉ
được dùng trong việc giải trí hay hội họp vui chơi. Bản Đăng Đàn
Cung là một bài nhă nhạc dùng trong lễ tế Nam Giao của nhà vua. Do
đó, nó có tánh cách trang trọng, nhưng không hùng hồn và không khích
động được tinh thần người nghe.
Bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông là một bản tân nhạc có tánh
cách khích động hơn bản Đăng Đàn Cung, nhưng cái hùng của nó là loại
trầm hùng nên không khích động tinh thần người nghe bằng bản Quốc
Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. V́ là một hành khúc, bản quốc
ca hiện nay của chúng ta khích động tinh thần người nghe một cách
mạnh mẽ hơn. Mặt khác nữa, hoàn cảnh lịch sử đă làm cho nó đóng một
vai tuồng tích cực trong cuộc tranh đấu cho nền độc lập và tự do của
dân tộc Việt Nam. Thời Thế Chiến II, với tên là Sinh Viên Hành Khúc,
nó đă được dùng để đánh thức tinh thần tranh đấu của nhơn dân Việt
Nam. Đến lúc người Pháp đem binh đến để tái chiếm Nam Việt, dưới tên
Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên, nó đă được dùng để
thúc đẩy các chiến sĩ cầm tầm vong vạt nhọn đứng lên tranh đấu với
Quân Đội Viễn Chinh Pháp. Khi nước Pháp chánh thức nh́n nhận nền độc
lập và thống nhứt của Việt Nam, nó đă thành bản quốc ca với tên là
Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân.
Bản Tiến Quân Ca của CSVN cũng có tánh cách khích động tinh
thần người nghe như bản quốc ca của chúng ta. Nhưng về lời ca th́ từ
h́nh thức Sinh Viên Hành Khúc qua Thanh Niên Hành Khúc đến Quốc Dân
Hành Khúc, bản quốc ca của chúng ta nhiều lắm là nói đến “thù nước
lấy máu đào đem báo,” c̣n Tiến Quân Ca với lời “thề phanh thây uống
máu quân thù,” rơ là sắt máu quá và có thể làm cho thế giới xem dân
tộc Việt Nam là dă man. Về mặt chánh trị, bản Thanh Niên Hành Khúc
đă được dùng để thúc đẩy các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm
vông vạt nhọn chống lại Quân Đội Viễn Chinh Pháp trong khi bản Tiến
Quân Ca đă được trổi lên để chào đón Quân Đội này lúc họ đổ bộ ra
Bắc Việt theo sự thoả thuận với Hồ Chí Minh trong Sơ Ước ngày 6
tháng 3 năm 1946. Sau đó, nó đă được dùng khi bộ đội Việt Minh cùng
với bộ đội Pháp hợp tác nhau trong Ban Liên Kiểm Việt-Pháp để tiến
đánh các chiến khu của Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân
Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội.
2/ Lư luận của những người muốn đổi quốc ca
Những người muốn đổi quốc ca đă đưa ra nhiều lư luận khác
nhau. Trong các lư luận được đưa ra, chỉ có một cái đáng cho chúng
ta lưu ư. Lư luận này đặt nền tảng trên chỗ tác giả bản nhạc được
chúng ta dùng làm quốc ca là Lưu Hữu Phước, hiện là một cán bộ cộng
sản. Lưu Hữu Phước đă lên tiếng sỉ vả người quốc gia Việt Nam là vô
liêm sỉ khi lấy bản nhạc của anh ta và đặt lại lời ca để dùng. Một
số người quốc gia Việt Nam đă tỏ ra khó chịu về việc này và những
người muốn thay đổi quốc ca đă dựa vào đó để kêu gọi mọi người bỏ
bản quốc ca hiện tại.
a) Nhận định về cá nhơn Lưu Hữu Phước
V́ lư luận trên đây dựa vào cá nhơn Lưu Hữu Phước nên chúng ta
cần phải biết về cá nhơn này trước khi phán đoán. Thời Thế Chiến II,
Lưu Hữu Phước là một sinh viên có tinh thần quốc gia và cũng như
nhiều sinh viên khác của Viện Đại Học Hà Nội, chỉ có chủ trương
giành độc lập cho Việt Nam mà không gia nhập đoàn thể chánh trị nào.
Lúc CSVN chưa cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước đă hoạt động với
Anh Nguyễn Tôn Hoàn là một cán bộ của Đại Việt Quốc Dân Đảng tại
Viện Đại Học Hà Nội.
Lúc CSVN cướp được chánh quyền, Lưu Hữu Phước và một số sinh
viên khác gia nhập Đảng Tân Dân Chủ, một chánh đảng hợp tác với CSVN
trong Mặt Trận Việt Minh, nhưng lúc đầu phân biệt với Đảng CSVN và
nhiều khi cạnh tranh lại đảng này. Tuy nhiên, bằng cách vừa mua
chuộc, vừa lấn ép, CSVN đă lôi phần lớn các đảng viên Tân Dân Chủ
vào Đảng CS và chỉ c̣n dùng tên Đảng Tân Dân Chủ làm một nhăn hiệu
để làm cho người ta lầm tưởng rằng chế độ họ xây dựng lên không phải
là chế độ độc đảng.
Lưu Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân Dân Chủ bị lôi
kéo vào Đảng CS. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và
bị loại ra khỏi trường chánh trị như Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ
tinh thần sắt máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh
Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc
biệt về chánh trị mà CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ.
Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đă dùng anh
ta như một văn công, sản xuất nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng về
các vấn đề khác những khi Đảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước
đă sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân
lúc c̣n là một sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là
một văn công của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Đảng
CSVN mớm cho.
b) Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca
Nhưng dầu cho lúc sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc,
Lưu Hữu Phước đă là một đảng viên cộng sản rồi và việc chỉ trích
chúng ta dùng bản nhạc đó là do ư anh ta, chúng ta cũng không phải
bận tâm về vấn đề này, v́ theo quan niệm chung của người các nơi
trên thế giới về quốc ca th́ khi một bản nhạc đă được quốc dân nhận
làm quốc ca, nó không c̣n của riêng ai nữa mà là của toàn dân. Do
đó, cá nhơn người sáng tác bản nhạc cũng như người chọn bản nhạc làm
quốc ca không thành một vấn đề đem ra thảo luận. Chúng ta có một
tiền lệ đáng lưu ư về việc này.
Đó là trường hợp bản Marseillaise được dùng làm quốc ca Pháp.
Bản quốc ca này được một nhà quí tộc Pháp là Rouget de Lisle sáng
tác năm 1792. Lúc ấy, Vua Louis thứ XVI c̣n trị v́ và Rouget de
Lisle là một sĩ quan trong Quân Đội Pháp. Năm 1793, Vua Louis thứ
XVI bị xử tử và Rouget de Lisle bị bắt v́ là người quí tộc theo phe
bảo hoàng chống lại Cách Mạng. Lúc ấy, Ông Lazare Carnot, Ủy Viên
Quốc Pḥng của Hội Đồng Cách Mạng v́ muốn cứu một sĩ quan cùng binh
chủng với ḿnh, lại là tác giả bản Marseillaise, đă đề nghị Rouget
de Lisle tuyên thệ trung thành với Cách Mạng th́ sẽ được tha, nhưng
Rouget de Lisle từ chối v́ không chịu phủ nhận lư tưởng bảo hoàng
của ḿnh. Cuối cùng, ông ta chỉ thoát chết v́ chánh phủ cách mạng
chủ trương Đại Khủng Bố do Robespierre cầm đầu đă bị lật đổ trước
khi bản án tử h́nh của ông ta được đem ra thi hành. Nhưng mặc dầu
sau năm 1793, Rouget de Lisle đă trở thành người chống lại Cách
Mạng, chánh quyền cách mạng Pháp vẫn tiếp tục dùng bản Marseillaise
do ông sáng tác và năm 1795 đă chánh thức quyết định lấy nó làm quốc
ca.
c) Trường hợp bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm
quốc ca
Bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca vốn do
nhạc sĩ Văn Cao sáng tác trong thời kỳ CSVN chưa cướp được chánh
quyền ở Việt Nam. Không rơ lúc ông sáng tác bản nhạc này, Văn Cao đă
là một đảng viên cộng sản hay chưa. Nhưng chắc chắn là về sau, ông
đă vào Đảng CSVN. Tuy nhiên, cũng như nhiều văn nghệ sĩ có nhiệt tâm
yêu nước thời đó, Văn Cao đă lần lần nhận chân được bộ mặt thật của
Cộng Sản. Điều đáng quí là ông đă can đảm hơn nhiều người khác như
Lưu Hữu Phước chẳng hạn, và đă dám nói lên sự bất măn và chống đối
của ḿnh. Ông đă tham dự phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm 1956
và đă dứt khoát chống lại Đảng CSVN. Trong con mắt của CSVN hiện
nay, Văn Cao là một phần tử phản Đảng, phản động, phản cách mạng.
Với chủ trương độc tài sắt máu và ḷng tự hào là Đảng ḿnh lúc
nào cũng hành động hợp với chánh nghĩa, CSVN rất xấu hổ về chỗ bản
quốc ca họ dùng là sáng tác của một nhạc sĩ phản Đảng, phản động và
phản cách mạng. Bởi đó, họ không chịu theo quan niệm thông thường
bắt đầu với lịch sử bản Marseillaise của Pháp, nghĩa là bất chấp lập
trường chánh trị về sau của tác giả bản quốc ca. Họ đă treo một giải
thưởng lớn cho người sáng tác được một bản nhạc đáng làm quốc ca
mới. Nhưng trong nhiều trăm bản nhạc gởi đến dự thi, họ đă không
chọn được bản nào ra hồn. Cuối cùng, họ phải hậm hực giữ bản Tiến
Quân Ca làm quốc ca.
Người quốc gia Việt Nam chúng ta theo quan niệm thông thường
trên thế giới về quốc ca nên không có ǵ phải hậm hực v́ tác giả bản
quốc ca chúng ta đang dùng hiện đă trở thành một văn công của CSVN.
Và nếu có người nào đem việc Lưu Hữu Phước sỉ vả chúng ta về chỗ đă
lấy bản nhạc do anh ta sáng tác làm quốc ca, chúng ta có thể bảo họ
nên dùng các lời sỉ vả đó đặt trong miệng Văn Cao để gởi cho tập
đoàn CSVN.
3/ Nhiệm vụ của người quốc gia Việt Nam đối với bản quốc ca
Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân
Người quốc gia Việt Nam may mắn có một bản quốc ca hùng hồn
được dùng để thúc đẩy người ái quốc tranh đấu cho nền độc lập và sự
tự do của dân tộc. Bản quốc ca này rất xứng đáng với lá quốc kỳ nền
vàng ba sọc đỏ. Với giá trị nội tại của chính nó, thêm vào vai tuồng
lịch sử mà nó đă đóng, nó lúc nào cũng gây sự xúc động mạnh mẽ trong
tâm trí người Việt Nam ái quốc. Từ khi được chánh thức dùng làm quốc
ca của nước Việt Nam độc lập, nó đă được nhiều quốc gia trên thế
giới biết đến. Tại Việt Nam, nó đă cùng với quốc kỳ nền vàng ba sọc
đỏ làm yếu tố hội tập nhiều triệu chiến sĩ quân nhơn như dân sự
tranh đấu cho sự tự do của dân tộc Việt Nam. Nó đă là bản nhạc tiễn
đưa ra nghĩa trang nhiều trăm ngàn người đă chết v́ Tổ Quốc Việt
Nam. Như vậy, nó cũng là một bảo vật thiêng liêng của chúng ta y như
quốc kỳ.
Hiện nay, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân không
c̣n được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng như mọi
người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng đó là bản nhạc của người
quốc gia chống lại Cộng Sản. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người
ngoại quốc xem là bản nhạc biểu tượng cho người quốc gia chống cộng.
Không bản nhạc nào khác có thể thay thế Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng
Gọi Công Dân về mặt này. Vậy, việc tôn trọng bản quốc ca đó và tiếp
tục dùng nó chung với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ một cách rộng răi ở
mọi nơi là một công cuộc đóng góp vào việc giải phóng Việt Nam khỏi
ách Cộng Sản. Nếu mọi người Việt Nam ở hải ngoại đều đồng tâm nhứt
trí để tranh đấu chung nhau th́ một ngày không xa lắm, bản Quốc Dân
Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân sẽ được hát lên ở khắp các nẻo
đường đất nước Việt Nam từ mũi Cà Mau đến ải Nam Quan. Chúng tôi
nghĩ rằng lúc ấy, chắc chắn không có bài khải hoàn ca nào hay hơn nó
được.
(Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy)
Tiếng Gọi Công Dân
Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Tóm lược: Ca khúc "Tiếng
Gọi Công Dân" được dùng làm quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa
một cách hợp pháp qua các sự kiện lịch sử và học thuyết
pháp lý, và nói lên tinh thần dân tộc của người miền Nam
không có sự đố kỵ tác giả nhạc điệu, Lưu Hữu Phước, là
đảng viên cộng sản. Bài hát là một bài quốc ca bất hủ,
có giai điệu trầm bổng, hùng hồn, tiết tấu thay đổi, và
lời ca có bố cục chặt chẽ, phù hợp với nhạc điệu và
dùng chữ hữu hiệu, đượm nét dân tộc, kêu gọi toàn dân Việt
Nam nổi dậy bảo vệ non sông và cứu nguy đất nước. "Tiếng
Gọi Công Dân" nên được dùng là biểu tượng quốc gia cho Việt
Nam, hoặc ít nhất là biểu tượng cho phong trào đấu tranh cho
tự do dân chủ tại Việt Nam.
***
Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" là bài quốc ca của Việt
Nam trong thời kỳ Quốc Gia Việt Nam (1948-1955) và miền Nam
Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa (Đệ Nhất và Đệ Nhị)
(1956-1975). Tác giả bài hát này thường được cho là Lưu Hữu
Phước, nhưng thực ra bài "Tiếng Gọi Công Dân" chỉ dùng nhạc
điệu của bài "La Marche Des Étudiants" do Lưu Hữu Phước viết
nhạc, nhưng lời thì do Đài phát thanh Sài Gòn viết lại,
khác đến 85% phiên bản tiếng Việt sau này của Lưu Hữu
Phước. Sự ra đời của "Tiếng Gọi Công Dân" là quốc ca của
Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có nhiều chi
tiết thú vị, nhất là vì Lưu Hữu Phước là đảng viên đảng
cộng sản Bắc Việt trong thời chiến tranh Nam Bắc. Những chi
tiết về lịch sử của "Tiếng Gọi Công Dân" sẽ được trình
bàu sau.
Tác giả của "Tiếng Gọi Công Dân" gồm có Lưu Hữu Phước
về âm nhạc và Đài phát thanh Sài Gòn về lời nhạc. Vì tôi
không rõ ai trong Đài phát thanh Sài Gòn viết lại lời nhạc,
sau đây tôi chỉ trình bày vắn tắt tiểu sử của Lưu Hữu
Phước (Wikipedia 2015h). Tuy nhiên, ta không nên quên sự đóng
góp của những người vô danh của Đài phát thanh Sài Gòn.
Lưu Hữu Phước sinh năm 1921 tại tỉnh Cần Thơ. Khoảng cuối thập
niên 1930, ông lên Sài G̣n học tại trường Petrus Kư. Vào cuối năm
1939, ông sáng tác bài hát "La Marche des Étudiants," và cùng Mai
Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ
học sinh. Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường Y -
Dược, thuộc Viện Đại học Đông Dương (1940-1944). Thời này, phong
trào đấu tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu
Hữu Phước nhanh chóng trở thành một trong những thủ lĩnh của phong
trào,
Năm 1944, Lưu Hữu Phước tham gia Việt Minh và được giao
phó những nhiệm vụ vận động cách mạng. Sau đó, ông hoạt
động với cộng sản Bắc Việt về các lãnh vực văn hóa và âm
nhạc. Sau năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc
(1978-1989), và đảm nhận nhiều chức vụ về văn hóa, giáo
dục, và nghệ thuật trong nhóm cầm quyền cộng sản. Ông mất
năm 1989 tại Sài Gòn.
Các tác phẩm nổi tiếng của ông gồm có Tiếng Gọi
Thanh Niên, Bạch Đằng Giang, Hồn Tử Sĩ, Giải Phóng Miền Nam
(ca khúc đại diện Việt cộng).
Nguyên văn lời bài hát "Tiếng Gọi Công Dân" như sau (Ban
2009):
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng
Đồng ḷng cùng đi hy sinh tiếc ǵ thân sống.
V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Ṇi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho cơi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang ṇi giống
Xứng danh ngh́n năm gịng giống Lạc Hồng!
Trong bài này, tôi sẽ trình bày bối cảnh và các diễn
tiến lịch sử dẫn đến sự ra đời của "Tiếng Gọi Công Dân"
và phân tích các khía cạnh pháp lý về việc ca khúc này
được dùng là quốc ca của VNCH. Ngoài ra, như thường lệ, tôi
sẽ thảo luận về các khía cạnh của bài hát, nội dung và
hình thức. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người
đọc, và người xem.
A. "Tiếng Gọi Công Dân" ra đời trong thời kỳ sôi bỏng
tại Đông Dương với sự hình thành của quốc gia Việt Nam độc
lập
Có nhiều tài liệu viết về nguồn gốc của "Tiếng Gọi
Công Dân" và các tiền thân của bài hát (Xem, thí dụ như,
Bạch 2014; Biển Nhớ; Nguyễn Lưu Viên; Nguyễn Ngọc Huy), và
có rất nhiều tài liệu lịch sử về những biến cố và sự
kiện xảy ra trong khoảng đầu thế kỷ 20 tại Đông Dương và
Việt Nam. Sau đây, tôi sẽ chỉ trình bày vắn tắt các khía
cạnh liên hệ đến Lưu Hữu Phước và "Tiếng Gọi Công Dân" là
quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và VNCH.
Năm 1939 mở đầu thời kỳ dầu sôi lửa bỏng tại Đông
Dương và thế giới khi Thế Chiến II bùng nổ. Cuối năm này,
Lưu Hữu Phước viết nhạc và Mai Văn Bộ viết lời (tiếng
Pháp) "La Marche des Étudiants."
Năm 1941, Lưu Hữu Phước viết lời Việt và đổi tựa bài
là "Tiếng Gọi Sinh Viên" hay "Sinh Viên Hành Khúc," được Tổng
hội Sinh Viên Đông Dương dùng là ca khúc nghi lễ của Tổng
hội. Có tài liệu cho biết Mai Văn Bộ và Nguyễn Thành Nguyên
viết lời Việt cho "Tiếng Gọi Sinh Viên" (Nguyễn Lưu Viên).
Năm 1941, Hồ Chí Minh và các đồng chí thành lập Việt
Minh là một tổ chức võ trang phục vụ các mục tiêu cộng
sản được Tàu cộng giao phó. Vì chủ nghĩa cộng sản bị
nguyền rủa bởi các thành phần quốc gia yêu nước, Hồ và
các đồng chí gian manh giở trò lừa đảo bằng cách ngụy
trang Việt Minh là một tổ chức quốc gia, chống Pháp
(Cao-Đắc 2014). Biết bao nhiêu người trẻ tuổi có lòng yêu
nước đã bị Việt Minh lừa đảo để tham gia hoặc ủng hộ Việt
Minh. Đến khi họ khám phá ra bộ mặt thật của Việt Minh là
cộng sản, thì quá trễ vì họ đã dính líu quá sâu vào
những hoạt động cộng sản. Do đó, những người trẻ ái quốc
này "bị buộc phải hợp tác với đảng cộng sản" (Buttinger 1967,
266). Những chi tiết về Việt Minh và mánh khóe của Hồ và
các đồng chí đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích
lý do tại sao Lưu Hữu Phước, tác giả của một ca khúc kêu
gọi sinh viên nổi dậy cho tổ quốc, sau này gia nhập Việt
Minh.
Ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, thu
hồi chủ quyền cho toàn quốc Việt Nam. Chính phủ Trần Trọng
Kim, thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, mở đường cho một
cuộc lấy quyền lực sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào
ngày 15 tháng 8 năm 1945.
Ngay sau khi được thành lập, ngày 8 tháng 5 năm 1945,
chính phủ Trần Trọng Kim lựa chọn biểu tượng quốc gia, đổi
tên nước thành Đế Quốc Việt Nam và chọn quốc kỳ nền vàng có một
quẻ Ly màu đỏ ở giữa. Về quốc ca, có tài liệu cho rằng quốc ca
là bản "Việt Nam Minh Châu Trời Đông" của nhạc sĩ Hùng Lân (Nguyễn
Ngọc Huy). Tuy nhiên, theo một số tài liệu, bản "Đăng Đàn
Cung," bản quốc ca hoặc nhạc triều đình trước đó, vẫn được
dùng là quốc ca (Marr 1995, 121). Trong hồi ký ông, Trần
Trọng Kim viết, "Bài quốc ca th́ từ trước vẫn dùng bài 'Đăng Đàn'
là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ:
trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lư hơn th́ hăy cứ dùng bài
ấy" (Trần 1969, 60-61).
Tuy hiện hữu chỉ trong một thời gian ngắn (Marr 1995,
351-352), chính phủ Trần Trọng Kim có những đóng góp tích
cực mở đường cho những hoạt động xây dựng một đất nước
hùng mạnh vừa mới được giành độc lập. Oái oăm thay, cộng
sản lợi dụng những đóng góp này trong việc cướp đoạt
chính quyền bất hợp pháp vào tháng 8 năm 1945 trong cái gọi
là cách mạng tháng tám (Cao-Đắc 2014). Dự án đáng nể nhất
của chính phủ Trần Trọng Kim là tổ chức giới trẻ và thanh
niên. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1945, một nghị định hoàng gia
đặt ra một cơ cấu có thứ tự cho các tổ chức thanh niên (Vu
1986, 309-310).
Quan trọng nhất trong các tổ chức thanh niên là tổ
chức Thanh niên Tiền Phong (TNTP), được Thống đốc Nam Kỳ Minoda
cho phép thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1945 (Marr 1995, 134-135;
Nguyễn Ngọc Huy; Wikipedia 2015c). TNTP là một tổ chức thành
lập dựa vào mô hình Hướng đạo Việt Nam và Tổng hội sinh
viên Đông Dương, và được sự giúp đỡ của chính phủ Trần
Trọng Kim dưới sự bảo trợ của Nhật (Wikipedia 2015c). TNTP
có hàng vạn thành viên lúc mới thành lập, tích cực tham
gia các hoạt động xã hội như tải thương nạn nhân bom đạn,
giúp đỡ nạn đói (Marr 1995, 134; Nguyễn Ngọc Huy). Trong dịp
lễ tuyên thệ của TNTP vào tháng 7, 1945 tại Sài Gòn, có
50.000 thành viên tham dự. Thành viên của ủy ban lãnh đạo
TNTP gồm có Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Trần Bửu
Kiếm, Huỳnh Văn Tiếng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, và Lê Văn
Huấn (Marr 1995, 135; Wikipedia 2015c). Cộng sản, dưới chiêu
bài yêu nước do Việt Minh rêu rao, xâm nhập vào các hội đoàn
sinh viên và thanh niên (Marr 1995, 134-135, 217-218; Vu 1986,
309-310), dẫn đến việc TNTP sau này giải tán và nhiều thành
viên gia nhập Việt Minh.
Năm 1945, TNTP sửa đổi thêm lời bài hát "Sinh Viên Hành
Khúc" và đổi tựa bài thành "Tiếng Gọi Thanh Niên" hay "Thanh
Niên Hành Khúc" và dùng bài hát là ca khúc của tổ chức
(Wikipedia 2015b). Như sẽ được trình bày sau, vì TNTP là một
tổ chức thuộc chính phủ, ca khúc "Tiếng Gọi Thanh Niên" trở
thành ca khúc thuộc chính phủ Đế Quốc Việt Nam.
Ngày 7 tháng 12 năm 1947, Quốc Gia Việt Nam được thành lập
và có nhiều nội các chính phủ cho tới năm 1955. Nội các
chính phủ trong thời Quốc Gia Việt Nam thay đổi nhiều lần,
bắt đầu với Nguyễn Văn Xuân (1948-1949) cho đến Ngô Đ́nh Diệm
(1954-1955) (Wikipedia 2015a).
Năm 1948, chính phủ Nguyễn Văn Xuân của Quốc Gia Việt Nam
chọn bài "Thanh Niên Hành Khúc" làm quốc ca với tên mới là "Tiếng
Gọi Công Dân" hay "Công Dân Hành Khúc." Theo Trần Văn Đôn, ông,
Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, và Lê Văn Đức "đề nghị thay lá cờ
vàng chữ Ly có từ chánh phủ Trần Trọng Kim ra cờ vàng ba
sọc đỏ tượng trưng giòng máu dân của ba miền và lấy bài
Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước làm Quốc ca vì lời
ca hùng hồn" (trích trong Hoàng 2002, 2177). Về Lưu Hữu
Phước, Trần Văn Đôn viết, "Lúc đó tôi nghĩ Lưu Hữu Phước
cũng như bao nhiêu thanh niên yêu nước khác đứng lên tranh đấu
giành độc lập cho đất nước chứ chưa phải là một đảng viên
cộng sản. Hơn nữa bài ca này đã sáng tác trước ngày Việt
Minh lên nắm chánh quyền. Vì vậy mà Đại hội đồng ý chấp
thuận đề nghị của chúng tôi" (trích trong sđd.).
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm, bấy giờ là Thủ
tướng, tổ chức một cuộc cuộc trưng cầu dân ý truất phế
Bảo Đại. Chính thể VNCH được thành lập vào ngày 26 tháng
10 năm 1955. Tháng 3 năm 1956, chính phủ tổ chức tổng tuyển cử bầu
Quốc hội Lập hiến. Sau đó, "Quốc Hội Lập Hiến khai mạc vào tháng 3
năm 1956 và có nhiệm vụ chọn quốc ca và quốc kỳ" (Biển Nhớ). Sau
khi xem xét và đánh giá các bài hát gửi cho tuyển chọn,
Quốc hội Lập Hiến quyết định không lựa bài mới nào, và "duy
tŕ bài quốc ca mà các chính phủ Nguyễn Văn Xuân và Nguyễn Văn Tâm
đă chọn trước đó rồi ra lệnh cho nhân viên Đài phát thanh Sài G̣n
sửa lại lời ca" (sđd.). Đài phát thanh Sài G̣n sửa chữa thêm để làm
thành bản quốc ca của VNCH với tên gọi "Tiếng Gọi Công Dân" và ca
khúc này là quốc ca của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng
Hòa tại Việt Nam cho tới năm 1975. Ca khúc "Tiếng Gọi Công
Dân" tiếp tục được duy trì là quốc ca của chính thể VNCH
cho cộng đồng người Việt hải ngoại sau ngày 30 tháng 4 năm
1975.
Sau đây là lời ca khúc "Tiếng Gọi Sinh Viên" và "Tiếng
Gọi Thanh Niên." Tôi chỉ trích phiên khúc gần giống nhất với
bài "Tiếng Gọi Công Dân" cho so sánh. Có nhiều phiên bản
khác nhau và một bản có thể có nhiều phiên khúc. Độc giả
có thể tìm đọc thêm tại các tài liệu khác (Xem, thí dụ
như, ConHoiThoConDauTranh 2011; Wikipedia 2015b). Phần in đậm cho
thấy những chỗ khác với "Tiếng Gọi Công Dân."
"Tiếng Gọi Sinh Viên":
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng ḷng cùng đi, đi, đi mở đường khai lối
V́ non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững ḷng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nh́n xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết ḷng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
"Tiếng Gọi Thanh Niên":
Này thanh niên ơi, tiến lên đến ngày giải phóng
Đồng ḷng cùng đi đi đi sá ǵ thân sống
Nh́n non sông nát tan thù nung tâm chí cao
Nh́n muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào.
Liều thân xông pha ta tranh đấu
Cờ nghĩa phất phới vàng pha máu
Cùng tiến quét hết những loài dă man
Hầu đem quê hương thoát ṿng u ám
Thề quyết lấy máu nóng mà rửa oán chung
Muôn thuở v́ núi sông nêu tiếng anh hùng.
Anh em ơi mau tiến lên dưới cờ
Thanh niên ơi quật cường nay đến giờ
Tiến lên cùng tiến gió tung nguồn sống
Cháy trong ḷng ta ngàn mớ lửa hồng
Trong phần sau đây, cho vắn tắt, tôi dùng "Sinh Viên,"
"Thanh Niên," và "Công Dân" với các chữ "Tiếng Gọi" hoặc
"Hành Khúc" được hiểu ngầm.
Toàn bài "Thanh Niên" có 120 chữ. Trong số này, chỉ có
18 chữ là giống y hệt với bài "Công Dân." Hai phiên bản, do
đó, khác nhau 85%. Với mức độ khác nhau quá nhiều, ta có
thể coi như lời bài hát được hoàn toàn viết lại bởi chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa.
B. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" dùng làm quốc ca của
VNCH một cách hợp pháp và nói lên tinh thần dân tộc của
người miền Nam:
Sự kiện quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và VNCH được
viết bởi một đảng viên cộng sản gây ra nhiều câu hỏi. Theo
một số tài liệu, chính Lưu Hữu Phước "từ năm 1949, đă viết
thư kịch liệt phản đối mạnh mẽ về việc này" (Bạch 2014). Trong thời
chiến tranh Nam Bắc, từ Hà Nội, Lưu Hữu Phước từng lên Đài tiếng nói
Việt Nam (Hà Nội) "liên tục bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về
việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông 'vẫn cứ bị người bên kia
chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác!' "(sđd.).
Câu hỏi đặt ra là sự chống đối của Lưu Hữu Phước có
chính đáng không, và chính phủ VNCH có hành động đúng khi
dùng nhạc của một đảng viên cộng sản là nhạc cho quốc ca.
Câu trả lời ngắn là sự chống đối của Lưu Hữu Phước hoàn
toàn vô giá trị và chính phủ VNCH hành động hợp pháp khi
dùng nhạc của ông là quốc ca của VNCH, như được trình bày
sau đây.
1. Lưu Hữu Phước đã nhường, hoặc mất, quyền sở hữu ca
khúc "Tiếng Gọi Thanh Niên" cho Đế Quốc Việt Nam, Quốc Gia
Việt Nam, và VNCH từ năm 1945:
Có hai khía cạnh pháp lý xác định Lưu Hữu Phước đã
mất quyền sở hữu ca khúc "Thanh Niên" và nhạc điệu cho ca
khúc "Công Dân" cho Đế Quốc Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam, và
VNCH: (1) TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc Việt Nam, và
(2) Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép Lưu Hữu Phước phản
đối việc dùng nhạc của ông.
Thảo luận về các khía cạnh pháp lý về vấn đề bản
quyền của Lưu Hữu Phước ra ngoài phạm vi của bài này, vì
nó đòi hỏi tìm tòi về luật bản quyền tại Việt Nam vào
năm Lưu Hữu Phước viết nhạc cho bài "La Marche des Étudiants."
Ta không rõ lúc bấy giờ có luật bản quyền hay không, và
nếu có, các điều luật đó như thế nào. Tuy nhiên, việc đó
thực ra không quan trọng, vì cho dù Lưu Hữu Phước có bản
quyền lúc ông sáng tác bài "La Marche des Étudiants," ông đã
nhường, hoặc mất, quyền đó lại cho Tổng hội Sinh viên Đông
Dương và tổ chức TNTP, cũng như nhạc sĩ Văn Cao đã nhường
quyền sở hữu ca khúc "Tiến Quân Ca" cho Việt Minh năm 1944.
a, Tổ chức TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc Việt
Nam và do đó ca khúc "Thanh Niên" của tổ chức này thuộc về
Đế Quốc Việt Nam.
Vào tháng 7, 1945, một phái đoàn 38 người của TNTP ra
Huế để gặp vua Bảo Đại. Bảo Đại phong Phạm Ngọc Thạch,
người đứng đầu phong trào TNTP, là đại diện về thanh niên
cho chính phủ hoàng gia tại miền Nam (Marr 1995, 135). Chi
tiết này rất quan trọng vì nó thiết lập căn bản pháp lý
của TNTP: đó là một cơ quan thuộc Đế Quốc Việt Nam và hoạt
động dưới sự bảo trợ của chính phủ Trần Trọng Kim.
TNTP là một tổ chức bán quân sự (paramilitary). Thành
viên được huấn luyện dùng vũ khí, mặc đồng phục (áo
trắng, quần short sẫm) (Marr 1995, 134, 381), có cờ và ca
khúc chính thức ("Thanh Niên"), có quyền cho thẻ căn cước
trong một số vùng (Marr 1995, 135). Để có thể hoạt động với
phạm vi và thẩm quyền như vậy, TNTP phải có một qui chế
hiện hữu chính thức và ngân quỹ dồi dào. Quy chế và tài
trợ đó chỉ có thể đến từ chính phủ Trần Trọng Kim của Đế
Quốc Việt Nam. Do đó, những sản phẩm hoặc kết quả của TNTP
đương nhiên là thuộc về Đế Quốc Việt Nam. Vì vậy, khi Lưu Hữu
Phước để ca khúc "Thanh Niên" dùng bởi TNTP là ca khúc của
tổ chức, ông đã mặc nhiên nhường quyền sở hữu ca khúc đó
cho Đế Quốc Việt Nam, và Đế Quốc Việt Nam (sau này được thừa kế
bởi Quốc Gia Việt Nam và VNCH theo luật thừa kế của các
thực thể quốc gia) có sở hữu ca khúc "Thanh Niên" từ lúc
TNTP dùng ca khúc này, vào khoảng tháng 7 năm 1945, hoặc sớm
hơn.
Cho dù sau này tổ chức TNTP giải tán và gia nhập Việt
Minh, sự kiện vẫn rõ ràng là ca khúc "Thanh Niên" đã trở
thành tiếng nói của Đế Quốc Việt Nam vào tháng 7 năm 1945,
hoặc sớm hơn, trước ngày Việt Minh cướp chính quyền vào
tháng 8, 1945. Ngoài ra, cho dù Lưu Hữu Phước không đồng ý
để ca khúc "Thanh Niên" là ca khúc chính thức của TNTP (một
giả thiết hầu như không thể có được vì ông nằm trong ban
lãnh đạo của tổ chức này), ông đã mất quyền sở hữu ca
khúc này qua hành động im lặng và không phản đối của ông
khi ca khúc đó được dùng rộng rãi khắp nơi, theo một học
thuyết pháp lý trình bày sau đây.
b, "Học Thuyết Ngăn Chận" không cho phép Lưu Hữu Phước
phản đối việc dùng nhạc của "Thanh Niên" là nhạc quốc ca
VNCH:
Không có tài liệu nào cho thấy Lưu Hữu Phước phản đối
việc các tổ chức này dùng ca khúc "Sinh Viên" hoặc "Thanh
Niên" là ca khúc nghi lễ của tổ chức trong khoảng thời gian
các phiên bản được lưu hành và trình diễn công cộng từ năm
1941 đến năm 1949. (Lưu Hữu Phước chỉ mới bắt đầu phản đối
từ 1949.) Sự không phản đối, hoặc im lặng, của Lưu Hữu
Phước trước biết bao nhiêu việc dùng công khai nhạc của ông,
cho thấy ông đã nhường quyền về nhạc ca khúc này cho công
chúng. Do đó, Lưu Hữu Phước đã hoàn toàn mất quyền sở hữu
về ca khúc "Sinh Viên" trong khoảng năm 1940-1945. Khi một tác
phẩm trở thành tác phẩm cho vùng công chúng, theo luật pháp
hoặc do hành động của tác giả (rõ rệt hoặc hàm ý), ai
cũng có quyền dùng tác phẩm đó mà không cần phải có sự
thỏa thuận của tác giả.
Trong luật pháp, một học thuyết căn bản về việc bị
mất quyền lợi là "Học Thuyết Ngăn Chận" (Doctrine of
Estoppel). Chữ "estoppel" có nghĩa là bị chặn lại. Người
Norman dùng từ ngữ Pháp "estoupail" có nghĩa là nút thùng,
lọ (bung) hay nút chai (cork) dùng để ngăn chận cái gì không
cho ra (Duhaime). Học thuyết này đã có từ thế́ kỷ 15 xuất
pháp từ Anh (sđd.), được đặt ra để tránh bất công do lừa
đảo hoặc không phù hợp, thống nhất. Tôi không thể đi sâu vào
học thuyết này vì những lý thuyết phức tạp về luật pháp,
nhưng có thể trình bày các điểm chính.
Một cách vắn tắt, Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép
một người chối bỏ cái gì đã được thiết lập là sự thật
qua hành động của viên chức tư pháp hay lập pháp, hoặc qua
ngay chính hành động của người đó, rõ rệt hoặc hiểu ngầm
(Wikipedia 2015e). Khi học thuyết này áp dụng cho các vấn đề
về tài sản hoặc sở hữu (kể cả tài sản trí tuệ), thường
có ba nhánh dựa vào: im lặng (acquiescence), diễn tả
(representation), và lời hứa (promise) (McFarlane 2014, 3).
Nhánh dựa vào im lặng có lẽ thích hợp nhất trong trường
hợp Lưu Hữu Phước vì ta chưa có bằng chứng rõ rệt cho sự
diễn tả hoặc lời hứa của ông với các tổ chức liên hệ,
nhưng ta có bằng chứng rõ rệt về sự im lặng của ông.
Học Thuyết Ngăn Chận dựa vào im lặng có thể được
giải thích như sau. Khi B làm những hành động dựa vào sự
tin tưởng lầm lẫn rằng quyền nào đó của A là thuộc về B;
và A, biết đến hành động này của B, giữ im lặng và không
đòi lại quyền của mình, thì A bị mất quyền đó nếu B chịu
thiệt thòi khi phải trả lại A quyền đó (McFarlane 2014, 3).
Đem vào trường hợp của Lưu Hữu Phước, giả sử ông không
có ý định cho Tổng hội Sinh Viên Đông Dương dùng ca khúc
"Sinh Viên" hoặc tổ chức TNTP dùng ca khúc "Thanh Niên." (Nếu
ông có ý định nhường quyền cho vùng công chúng và để các
tổ chức tùy nghi dùng nhạc điệu hoặc ca khúc "Sinh Viên"
thì không còn vấn đề bàn cãi nữa.) Tổng hội dùng ca khúc
đó dựa vào sự tin tưởng lầm lẫn về quyền của hội là
được ông cho phép. Lưu Hữu Phước là thành phần lãnh đạo
trong Tổng hội Sinh Viên và TNTP. Do đó đương nhiên ông biết
hành động này của hai tổ chức, nhưng ông không phản đối, và
giữ im lặng trong suốt những năm từ 1941 (khi Tổng hội Sinh
Viên Đông Dương công khai dùng ca khúc "Sinh Viên" là ca khúc
nghi lễ của hội), qua năm 1945 (khi tổ chức TNTP dùng ca khúc
"Thanh Niên" là ca khúc của tổ chức), qua năm 1948 khi chính
phủ Nguyễn Văn Xuân sửa lại lời nhạc và dùng ca khúc "Công
Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam. Sự im lặng của ông
là bằng chứng cụ thể cho thấy ông đã nhường quyền sở hữu
cho Tổng hội và TNTP, và đã tước ông quyền sở hữu của
nhạc điệu trong ca khúc "Thanh Niên" ngay từ năm 1941, hoặc ít
nhất là năm 1945. Chỉ đến năm 1949, Lưu Hữu Phước mới bắt
đầu phản đối việc ca khúc "Công Dân" là quốc ca của Quốc
Gia Việt Nam. Lúc bấy giờ, mọi việc đã quá trễ. Các tổ
chức này không thể trả lại quyền sở hữu đó cho ông vì họ
sẽ bị thiệt thòi do sự đầu tư tài chánh, nhân sự, biểu
tượng, tiếng tăm cho bài hát. Do đó, Lưu Hữu Phước đã mất
quyền sở hữu bài hát và bị ngăn chận đòi lại quyền đó.
và lời phản đối của ông trở nên vô giá trị. Tám năm trời
im lặng là một khoảng thời gian quá dài.
Tuy Học Thuyết Ngăn Chận là học thuyết mới, các lý
lẽ pháp luật và nguyên tắc công bằng hiện hữu từ hàng trăm
năm. Vì không có vụ kiện nào liên hệ đến vấn đề này, ta
không rõ tòa sẽ xử thế nào; nhưng điều chắc chắn là nếu
có, một tòa án công minh sẽ dùng các nguyên tắc công bằng.
Vì nhạc điệu của "Thanh Niên" của Lưu Hữu Phước đã
thuộc về Đế Quốc Việt Nam qua sự im lặng của ông, VNCH có
quyền dùng nhạc điệu đó mà không cần sự thỏa thuận của
ông. Ngoài ra, quốc gia VNCH có bản quyền trên lời ca "Công
Dân" vì lời ca khác hẳn lời ca của "Thanh Niên" đến 85%. Do
đó, sự phản đối của Lưu Hữu Phước sau này về nhạc điệu
của "Công Dân" hoàn toàn vô giá trị, và lại còn vô giá trị
hơn với lời ca.
2. Quốc Gia Việt Nam và VNCH không hề đạo nhạc của Lưu
Hữu Phước vì tên ông luôn luôn được ghi nhận rõ rệt:
Một số người cộng sản kết tội một cách ngu xuẩn là
chính phủ VNCH ăn cắp nhạc của Lưu Hữu Phước cho bài quốc
ca. Những lời kết tội này không những vô căn cứ theo lịch
sử nguồn gốc bài hát như trình bày ở trên, mà còn phản
ảnh sự kém hiểu biết về ăn cắp văn chương và đạo văn.
Ăn cắp văn học hoặc văn chương (literary theft) là một hành
động ăn cắp tác phẩm văn học của người khác. Ăn cắp văn học cũng có
thể gọi là đạo văn (plagiarism), mặc dù ăn cắp văn học có thể có một
phạm vi rộng hơn so với đạo văn. Trên thực tế, ăn cắp văn học và
đạo văn được dùng thay thế lẫn nhau. Đạo văn tránh chữ "ăn cắp"
hay "đánh trộm" nhưng nó có cùng nghĩa. "Plagiarism" có gốc từ
chữ "plagiarus," một chữ Latin có nghĩa là "bắt cóc nô lệ" (Pappas
1998, 31). Các hành vi đạo văn tương tự như hành vi bắt cóc, hoặc ăn
cắp, công trình người khác. Có nhiều định nghĩa cho đạo văn từ
một số nguồn tài liệu (Xem, thí dụ như, Johnson, 1755, trích dẫn
trong Mallon 1989, 11; từ điển tiếng Anh Oxford, trích dẫn trong
Stearns 1999, 17; Stearns 1999, 7; Wikipedia 2015g). Đại khái,
đạo văn là "cố ư lấy tài sản văn học của người khác mà không ghi
công và mạo nhận nó là của riêng mình" (Stearns 1999, 7). Điểm
chính của đạo văn là "mạo nhận là của chính mình" hay
"trình bày như của chính mình," nghĩa là tạo ấn tượng cho
người khác khiến họ tưởng thủ phạm là tác giả.
Đạo văn là một khái niệm đạo đức hay luân lý hơn là một khái
niệm pháp luật. Tại Hoa Kỳ, không có luật liên bang chống lại hành
vi ăn cắp văn học hoặc đạo văn. Các tổ chức tư nhân hoặc công cộng
(thí dụ, cơ quan giáo dục, trường học) có thể đặt ra các quy
tắc riêng và biện pháp kỷ luật đối với hành vi đạo văn dưới
khuôn kh̀ổ của các tổ chức đó. Ngoài ra, đạo văn và vi phạm
bản quyền là hai khái niệm khác nhau. Đạo văn có thể hoặc
không thể dẫn đến vi phạm bản quyền, và ngược lại.
Thông thường, đạo văn dính líu chỉ vài đoạn văn, và
nhiều khi chỉ vài câu. Một trường hợp đạo văn trở thành
toàn diện hay tột độ là khi kẻ đạo văn ăn cắp toàn bộ tác
phẩm của người khác và xưng là của mình. Trường hợp này
rất hiếm có vì mức độ gian xảo cực độ và rất ít có
người nào mặt dầy mặt dạn dám có gan làm những chuyện
kinh khủng như vậy. Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại, có
một kẻ đã làm chuyện đó. Đó là Hồ Chí Minh. Hồ đạo văn
toàn diện ít nhất ba văn bản: "Thỉnh nguyện thư của dân tộc An
Nam" (Xem, thí dụ như, Quinn-Judge 2002, 18), "Bản Án Chế độ Thực
Dân Pháp" (Xem, thí dụ như, Thụy 2012, 560-562), và "Nhật Ký
Trong Tù" (Xem, thí dụ như, Lê 1990). Có thể cái "văn hóa
đạo văn" này đã thấm nhuần trong thành phần cộng sản theo
gương Hồ, nên nhiều người cộng sản tưởng ai cũng như họ,
kết tội chính phủ VNCH đạo nhạc của Lưu Hữu Phước.
Quốc Gia Việt Nam và VNCH không hề mạo nhận tác giả,
hoặc tạo ấn tượng cho người khác khiến họ tưởng tác giả
quốc ca là người đang phục vụ trong miền Nam. Ngược lại,
Quốc Gia Việt Nam ngay từ thời chính phủ Nguyễn Văn Xuân năm
1948 và VNCH luôn luôn ghi rõ tác giả ca khúc "Công Dân" là
Lưu Hữu Phước. Việc ghi rõ tên tác giả Lưu Hữu Phước cho
thấy Quốc Gia Việt Nam và VNCH không ăn cắp nhạc hoặc đạo
nhạc của Lưu Hữu Phước. Không những thế, chính phủ VNCH lúc
nào cũng cho Lưu Hữu Phước cái danh dự là tác giả của
quốc ca VNCH cho dù ông chỉ là tác giả của nhạc điệu và
không phải là tác giả của lời nhạc. Về việc bản quyền,
như đã trình bày trên, cho dù Lưu Hữu Phước có bản quyền,
ông đã bị mất bản quyền này và nhường quyền lại cho VNCH.
3. Việc dùng nhạc của Lưu Hữu Phước cho quốc ca của
VNCH cho thấy tinh thần dân tộc của người miền Nam Việt Nam
đối với toàn dân Việt:
Miền Nam không thiếu nhân tài viết nhạc cho quốc ca, như
đã được chứng tỏ qua kho tàng nhạc vàng vô giá tại miền
Nam trước năm 1975. Chính phủ Nguyễn Văn Xuân, Quốc hội thời
Đệ Nhất Cộng Hòa, và chính phủ Đệ Nhị Cộng Hòa không câu
nệ sự kiện tác giả nhạc điệu của bài quốc ca là người ở
"phe bên kia" mà vẫn tiếp tục dùng nhạc điệu này, vì lúc
ông sáng tác bản nhạc, "Lưu Hữu Phước cũng như bao nhiêu
thanh niên yêu nước khác đứng lên tranh đấu giành độc lập cho
đất nước chứ chưa phải là một đảng viên cộng sản" (trích
lời Trần Văn Đôn, trong Hoàng 2002, 2177). Điều đó cho thấy
người miền Nam không có sự đố kỵ, hận thù, lòng dạ nhỏ
nhen, mà ngược lại còn cho thấy tinh thần dân tộc và thương
yêu đồng bào. Tinh thần dân tộc này thể hiện bản chất nhân
bản, khai phóng, và yêu thương đồng bào, không phân biệt Nam
Bắc, của người miền Nam không cộng sản.
Ngược lại, chắc chắn nhóm cầm quyền cộng sản Bắc
Việt không bao giờ dùng nhạc viết bởi nhạc sĩ của Quốc Gia
Việt Nam hoặc VNCH, cho dù những bài đó không dính dáng gì
đến chính trị hoặc đả kích cộng sản. Lòng dạ nhỏ nhen,
bụng tiểu nhân, mặc cảm tự ti, và đầu óc chia rẽ hận thù
của nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã được biết rõ khi
chúng cấm đoán nhạc miền Nam ngay cả sau khi chúng chiếm
đoạt được miền Nam năm 1975.
Ta cũng nên hiểu Lưu Hữu Phước có thể bị nhóm cầm
quyền cộng sản Bắc Việt bắt buộc lên tiếng phản đối, vì
khó tin một nhạc sĩ, thay vì hãnh diện, lại có thái độ
bực bội việc tác phẩm mình được dùng cho một mục đích cao
cả là quốc ca của một quốc gia. Ngoài ra, Lưu Hữu Phước lên
tiếng phản đối vào năm 1949, khi Ngô Đình Diệm chưa làm Thủ
tướng, và Mỹ chưa đặt chân lên miền Nam. Do đó, bảo rằng Lưu
Hữu Phước phản đối vì miền Nam phục vụ đế quốc Mỹ là
hoàn toàn sai lầm.
C. "Tiếng Gọi Công Dân" có bố cục chặt chẽ, là lời
kêu gọi toàn dân đứng lên tranh đấu cho quốc gia thoát khỏi
cơn nguy biến.
Quốc kỳ và quốc ca là khí cụ hữu hiệu giúp dân ràng
buộc với nhau và là hai biểu tượng quan trọng nhất cho một
quốc gia. Vì là biểu tượng quốc gia, quốc kỳ và quốc ca
có vai trò thiêng liêng và cao cả trong việc lôi kéo toàn dân
vào nhau. Ngoài ra, quốc ca thường được trình bày trong
những dịp long trọng hoặc nghiêm trang. Để tạo không khí
nghiêm trang và nhấn mạnh tinh thần quốc gia, rất quan trọng
là quốc ca có nhạc điệu hùng hồn, tha thiết, dễ hát, và
lời ca khơi động lòng yêu nước của toàn dân. Ca khúc "Tiếng
Gọi Công Dân" có đầy đủ những tính chất đó ở mức độ cao,
và là một bài quốc ca bất hủ.
Kelen (2015, 71) phân loại ra ba loại quốc ca dựa vào
nội dung lời ca: (1) bài hát "hành khúc" hoặc thúc giục,
thí dụ như "La Marseillaise" (Pháp); (2) hoạt cảnh tự chúc
mừng (bức tranh của một quốc gia xứng đáng), như "Advance
Australia Fair" (Úc) hoặc "The Star-Spangled Banner" (Hoa Kỳ);
và (3) ca khúc cầu nguyện, tha thiết đến thần thánh, như
"God Save the King/Queen" (Anh). Có nhiều quốc ca có chút ít
mỗi phần, hoặc không thích hợp với các loại này. "Công Dân"
có đủ cả ba loại đó. Là bài "hành khúc," "Công Dân" thúc
giục người dân hy sinh cho tổ quốc và hiến thân dưới cờ. Là
bài ca ngợi quốc gia xứng đáng, "Công Dân" ca ngợi tiếng tăm
người Nam vang khắp nơi và cho đến muôn đời và nòi giống vẻ
vang. Là bài tha thiế́t đến thực thể thiêng liêng, "Công Dân"
nhắc nhở lịch sử mấy ngàn năm của giòng giống Lạc Hồng.
Một cách độc đáo, tuy lời ca "Tiếng Gọi Công Dân" được
viết năm 1956, nội dung có một bố cục chặt chẽ, mạch lạc,
và có luận lý, đi theo thể thức một bài phân tích pháp
luật. Hầu hết các bài viết phân tích pháp luật, bài thi
luật, hoặc bài tóm tắt phân tích các vụ kiện tố tụng đều
theo một thể thức nào đó. Các thể thức này đặt ra để
giúp bài viết sáng sủa, mạch lạc, và có những chú trọng
thích hợp.
Tại Hoa Kỳ, có nhiều thể thức viết cho các bài luận
pháp lý, như IRAC, CRRACC (Xem, thí dụ như, CUNY; Wikipedia
2015i). Đại khái, thể thức IRAC (Issue, Rule, Analysis,
Conclusion) gồm có bốn phần: Issue (Đặt vấn đề), Rule (Phát
biểu luật/ quy tắc), Analysis/ Application (Phân tích/ Áp
dụng/ Diễn giải), và Conclusion (Kết luận). Sau đây là một
thí dụ một bài viết về một vấn đề pháp luật theo thể
thức IRAC (đây chỉ là một thí dụ đơn giản và không phải là
một bài viết phản ảnh thực tế):
1) Đặt vấn đề: Vấn đề đặt ra là Nguyễn Văn X có phạm
tội giết người không?
2) Phát biểu luật/ quy tắc: Theo luật hình sự
California, luật 187(a), hình luật giết người là giết bất
hợp pháp một người hay một bào thai với chủ ý phạm tội.
3) Phân tích/ Áp dụng/ Diễn giải: Nguyễn Văn X. mang dao
giấu trong người và ngồi chờ nạn nhân đến quán ăn. Theo vụ
California v. Trần Z., khi một người giấu vũ khí trong người
và ngồi chờ, người đó có chủ tâm phạm tội. Ở đây, X. gói
con dao trong bao ny lông, và nhét trong bụng, rõ ràng giấu
giếm vũ khí. X. ngồi trong quán không ăn gì mà chỉ uống đá
lạnh trong nửa tiếng, cho thấy X. chờ đợi nạn nhân. Do đó, X
có ý định giết người với chủ ý phạm tội. Khi nạn nhân
đến quán ăn, X bước tới bàn nạn nhân và móc dao ra chém
nạn nhân liên tiếp cả chục nhát vào mặt, cổ, ngực, và
bụng. Nạn nhân ngã xuống đất và chết ngay tại chỗ. Hành
động của X giết chết nạn nhân một cách bất hợp pháp. Bào
chữa cho X. có thể dựa vào lý thuyết cơn điên mãnh liệt vì
nạn nhân là người tình của vợ X. Tuy nhiên, dựa vào vụ
California v. John Smith, bào chữa này không có căn bản vì X.
thiếu ít nhất hai yếu tố: bị thách thức đột nhiên và hành
động nhất thời trong một giây phút nóng gíận quá độ.
4) Kết luận: Nguyễn Văn X. phạm tội giết người dựa
vào hình luật 187(a).
Bài "Công Dân" có bố cục theo đúng thể thức IRAC ở
trên như sau:
1) Đặt vấn đề: Người dân phải làm gì khi "quốc gia
đến ngày gỉải phóng"?
2) Phát biểu luật/ quy tắc: Nhiệm vụ của người dân là
bảo vệ "tương lai quốc dân" và "núi sông từ nay luôn vững
bền."
3) Phân tích/ Áp dụng/ Diễn giải: Người dân phải biết
hy sinh "dù cho thây phơi trên gươm giáo," và phải "lấy máu
đào đem báo" cho "thù nước." Ngoài ra, người dân phải biết
"giải nguy" cho đất nước "lúc biến," "vững bền tâm trí" và
"hùng tráng quyết chiến đấu" để "tiếng người nước Nam" vang "khắp
nơi" "cho đến muôn đời."
4) Kết luận: Hỡi dân chúng, hãy "mau hiến thân dưới cờ"
và "mau làm cho cơi bờ thoát cơn tàn phá," cho "vẻ vang ṇi giống"
và "xứng danh ngh́n năm gịng giống Lạc Hồng!"
Với bố cục chặt chẽ đó, ý tưởng trong "Công Dân" trôi
chảy mạch lạc và rất dễ hiểu.
Bài hát mở đầu với lời xác định vấn đề nghiêm trọng
của quốc gia khi đất nước đã đến thời kỳ thoát ly ra khỏi
những gông cùm của nô lệ và tăm tối ("Này công dân ơi! Quốc
gia đến ngày giải phóng"). Câu hỏi ngầm là người dân phải làm
gì khi quốc gia đến ngày giải phóng. Câu trả lời nhanh là
mọi công dân hãy cùng ra đi dấn thân và hy sinh cho quê hương
("Đồng ḷng cùng đi hy sinh tiếc ǵ thân sống").
Ngày phần mở đầu, câu "Này công dân ơi!" tương phản rõ
rệt với câu "Đoàn quân Việt Nam đi" trong ca khúc "Tiến Quân Ca"
của nhạc sĩ Văn Cao, và là quốc ca của cộng sản Bắc Việt
và sau này gán đặt lên Việt Nam (Wikipedia 2015f). Trong khi
"Này công dân ơi!" là lời kêu gọi êm ái tới đồng bào dân
chúng cùng đứng lên bảo vệ non sông, câu "Đoàn quân Việt Nam
đi" vẽ ra hình ảnh binh lính đi bắn giết quân thù nơi sa
trường dưới lá cờ hình máu của chiến thắng. Chỉ với câu
mở đầu này, ta thấy "Công Dân" xứng đáng là quốc ca của
Việt Nam hơn "Tiến Quân Ca" vì "Công Dân" kêu gọi toàn dân,
chứ không phải quân đội.
Ta phải hiểu "đến ngày" trong câu "Quốc gia đến ngày giải
phóng" không có nghĩa là ngày đó đã được định trước mà có
nghĩa là đã đến lúc giải thoát quốc gia ra khỏi tù túng.
Cho dù tù túng, gông cùm, hay tăm tối, tình trạng đã chín
mùi cho cuộc nổi dậy. Một cách tiên tri, câu "Quốc gia đến
ngày giải phóng" nói lên thực trạng của Việt Nam hiện nay khi
nhóm cầm quyền cộng sản đem chủ thuyết ngoại bang là gông
cùm đặt lên đầu lên cổ người dân.
Có phiên bản dùng "Đứng lên đáp lời sông núi" thay vì
"Quốc gia đến ngày giải phóng." Đây là sự sai lầm vô tình hay
cố ý (có thể vì dị ứng với từ ngữ "giải phóng"). Câu
"Đứng lên đáp lời sông núi" là câu trong "Sinh Viên" và không
phải trong "Công Dân." Việc đó rất rõ ràng vì câu kế tiếp
".. thân sống" không vần với "sông núi" mà vần với "giải
phóng." Sai vần thực sự không quan trọng. Cái sai lầm kế là
cách dùng cú pháp lệch lạc. Như sẽ trình bày sau, chữ
"này" trong tiếng Việt rất tinh tế. Khi bạn nói với ai với
chữ mở đầu "Này ..." (thí dụ, "Này anh ơi,"), bạn không có
ý định thúc giục hoặc kêu gọi người đó làm chuyện gì.
Chữ "này" mở đầu một câu nói chuẩn bị cho lời giảng giải,
cắt nghĩa, phân trần, nhắn nhủ, hoặc biểu lộ cảm nghĩ,
tình trạng nào đó. Thí dụ, "Này anh ơi, bây giờ kinh tế
khó khăn,..." Bạn không dùng "này" để thúc giục hoặc kêu
gọi. Câu "đứng lên đáp lời sông núi" là một lời thúc giục,
kêu gọi, và do đó không thể đặt sau câu "Này công dân ơi!"
Quan trọng hơn, câu "Quốc gia đến ngày giải phóng" đóng vai trò
một câu đặt vấn đề như trình bày ở trên. Nếu không có câu
này, ta sẽ không hiểu vấn đề ở đâu mà ra, tại sao phải
"đứng lên đáp lời sông núi" hoặc "hy sinh tiếc gì thân
sống," v.v... Quan trọng nhất, ta không nên sửa đổi lời bài
quốc ca đã được dùng trong suốt hai mươi năm của VNCH trước
1975, vì đó là một văn bản có giá trị lịch sử và quốc
gia.
Vào năm 1960, cộng sản Bắc Việt tạo ra "Mặt trận giải
phóng miền Nam" (MTGPMN) với mục đích xâm lăng miền Nam theo
lệnh Tàu cộng, khiế́n "giải phóng" có ý nghĩa tang tóc,
chém giết, cướp bức, đàn áp, và mang theo tính chất dã
man, vô nhân đạo, và ngu xuẩn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng
sản chiếm đóng miền Nam dưới chiêu bài "giải phóng" và sau
đó lại còn đem ý nghĩa đau thương, tang tóc, hận thù cho
chữ "giải phóng." Tuy nhiên, ta không nên dị ứng với chữ
"giải phóng" vì "giải phóng" có ý nghĩa cao cả vào lúc
lời nhạc được ghi. (Xin các vị Chống-Chống Cộng đừng hăm
hở nhào vô và kết tội tôi là cổ võ dùng từ ngữ cộng
sản.) Lời nhạc cho ca khúc "Công Dân" được viết vào năm 1956,
bốn năm trước khi MTGPMN được thành lập. Do đó ý nghĩa
"giải phóng" phải được suy diễn trong tình huống thời cục
lúc ấy. Bấy giờ, miền Nam Việt Nam là một quốc gia hoàn
toàn độc lập và có chủ quyền trên khắp lãnh thổ miển Nam.
Do đó, "giải phóng" không thể có ý nghĩa hạn hẹp là giành
độc lập hoặc thoát khỏi cai trị của ngoại bang. "Giải
phóng" theo ý nghĩa lúc lời nhạc "Công Dân" được viết lại
vào năm 1956 hàm ý giải thoát khỏi gông cùm của bất cứ gì
cản trở sự tiến hoá của con người trong hiện tại và tương
lai, kể cả bảo thủ, độc tài, lệ thuộc ngoại bang, nô lệ,
tăm tối, hoặc ngu si. Ta không nên "tẩy chay" từ ngữ "giải
phóng" chỉ vì cộng sản lạm dụng và cho nó một ý nghĩa
xấu xa. Nhóm cầm quyền cộng sản đã thao túng và làm suy
đồi nền văn hóa Việt Nam qua sự ngu dốt, lạm dụng, và đã
khiến một số từ ngữ bị "tai tiếng." Nhưng ta không thể để
cộng sản giết chết những từ ngữ này.
Trở về bài hát, lời nhắn nhủ công dân tiếp tục. Cuộc
hy sinh là vì tương lai của toàn dân nên mọi người hãy cùng
nhau xông pha nơi lằn tên mũi đạn để giữ gìn non sông được
bền vững ("V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên/ Làm sao
cho núi sông từ nay luôn vững bền"). Câu "núi sông từ nay luôn
vững bền" cho thấy ý chí bảo tồn lãnh thổ toàn vẹn. Theo
đúng ý chí đó, quân lực VNCH (QLVNCH) đã luôn luôn tích cực
chống trả mãnh liệt mưu đồ xâm lấn của ngoại bang. Cuộc
chiến giữa QLVNCH và Tàu cộng tại Hoàng Sa năm 1974 cho thấy
ý chí can trường đó.
Cho dù phải chết phơi thây trên gươm giáo nhưng vì thù
nước, người dân phải lấy máu đổi máu, báo thù bằng chính
máu đỏ của mình ("Dù cho thây phơi trên gươm giáo/ Thù nước, lấy
máu đào đem báo"). Câu "Dù cho thây phơi trên gươm giáo" tương phản
rõ rệt với câu "Đường vinh quang xây xác quân thù" trong bài
"Tiến Quân Ca," quốc ca của cộng sản Bắc Việt và sau này
gán đặt lên Việt Nam. Trong khi VNCH kêu gọi toàn dân hy sinh
cho tổ quốc, cho dù phải hy sinh tánh mạng như cha ông tổ
tiên đã làm, nhóm cầm quyền cộng sản chỉ kêu gọi binh lính
họ chém giết quân thù, một hình ảnh khát máu khác hẳn
với bản chất hiền hòa và ý chí hy sinh của dân Việt.
Câu "Thù nước, lấy máu đào đem báo" là một câu độc đáo.
Thế nào là "thù nước"?
"Thù nước" nhấn mạnh mối thù quốc gia, chứ không phải
là mối thù cá nhân, như phe địch giết thân nhân mình. Đó là
mối thù hại đến tổ quốc. Lúc bấy giờ, vào năm 1956, cộng
sản Bắc Việt còn đang lo kinh tế ngoài Bắc nên chưa tăng
cường xâm lấn mìền Nam. Cộng sản vẫn có trong miền Nam,
khoảng chục ngàn cán bộ, nhưng hiểm họa cộng sản hoặc
ngoại xâm không nặng nề lắm. Vậy tại sao "thù nước"?
Trong một giải thích, tác giả (nhân viên Đài phát thanh
Sài Gòn) không có ý tưởng rõ rệt ai là kẻ thù của đất
nước lúc bấy giờ, mà chỉ là lời kêu gọi tổng quát cho
toàn dân báo thù cho bất cứ kẻ thù quốc gia nào, kể cả
những kẻ trong nước cướp nước dâng cho ngoại bang hoặc quân
xâm lăng ngoại bang. Tuy nhiên, giải thích đó không thỏa đáng
vì "thù nước" và "máu đào đem báo" hàm ý một mối thù rõ
rệt. Do đó, dưới một giải thích khác,"thù nước" là mối
thù cộng sản Việt Minh lừa đảo dân, cướp chính quyền của
quốc gia Việt Nam vào tháng 8 năm 1945, đặt gông cùm cộng
sản tàn ác lên dân Việt, và cúi đầu làm nô lệ cho Tàu
cộng và Liên Xô. Hành động phi pháp, cuộc thảm sát hơn
170.000 dân trong chiến dịch cải cách ruộng đất theo lệnh
quan thầy Tàu cộng của họ, và phí phạm hàng vạn binh lính
trong các trận chống Pháp nhất là trận Điện Biên Phủ, quả
là một mối thù quốc gia. Người miền Nam, lúc nào cũng coi
người dân miền Bắc không cộng sản là anh em, coi việc cộng
sản đặt gông cùm lên đồng bào mình ngoài Bắc là mối thù
quốc gia.
Một cách tiên tri, ý nghĩa của "thù nước" lại càng
nổi bật rõ khi cộng sản Bắc Việt xâm lăng và chiếm đóng
miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Từ đó, ngày
30 tháng 4 thường được gọi là ngày "quốc hận" để cho thấy
mối thù nhóm cầm quyền cộng sản nghe lệnh quan thầy Tàu
cộng, xé bỏ hiệp định, và xâm lăng miền Nam, dẫn đến cảnh
hàng triệu người bỏ xứ định cư trên các nước tự do, và
hàng trăm ngàn người bỏ mạng khi vượt biên hoặc bị hành
quyết trong các trại tù cải tạo. Mối thù nước này lại
càng được nung nấu trong suốt 40 năm qua khi nhóm cầm quyền
cộng sản lôi kéo đất nước oai hùng ngày nào xuống bờ vực
của ươn hèn và lụn bại, hủy hoại tài nguyên và của cải
đất nước qua hành động bán nước và tệ trạng tham nhũng,
tiêu diệt những tinh hoa đất nước qua những tuyên truyền và
lừa đảo khiến các thế hệ trẻ bị chôn vùi trong ngục tù
tăm tối, và phạm biết bao nhiêu tội ác với nhân dân và tổ
quốc. Với ý nghĩa "thù nước" này, "Công Dân" nên được coi
là quốc ca của nước Việt Nam hiện nay hoặc ít nhất là bài
ca đại diện các phong trào đấu tranh giành tự do dân chủ cho
Việt Nam.
Người dân Việt thuộc nòi giống Tiên Rồng phải biết
giải tỏa nguy hiểm khi có cơn nguy biến xảy ra cho đất nước;
và người dân lúc nào cũng phải vững tâm bền chí ("Ṇi giống
lúc biến phải cần giải nguy/ Người công dân luôn vững bền tâm trí").
Người dân phải quyết chiến đấu hùng tráng chống lại quân
thù để tiếng tăm dân Việt được vang vang khắp nơi trên thế
giới cho đến ngàn năm ("Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp
nơi/ Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!"). Lời kêu gọi
cho tiếng tăm nước Việt Nam vẻ vang khắp nơi trên thế giới
và cả ngàn năm cho thấy tinh thần quốc gia độc lập cao độ,
không chịu lệ thuộc ngoại bang.
Phiên khúc chót là lời kêu gọi tha thiết đến toàn dân.
Hỡi người dân Việt, hãy nguyện hy sinh cho tổ quốc. Hãy cố
gắng chiến đấu để đất nước thoát cơn tàn phá vì kẻ thù,
và để vẻ vang xứng danh ngàn năm là con cháu Lạc Hồng
("Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!/ Công dân ơi! Mau làm cho cơi
bờ/ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang ṇi giống/ Xứng danh ngh́n năm gịng
giống Lạc Hồng!"). Lời kêu gọi này là câu trả lời cho câu hỏi
ngầm người dân nên làm gì khi quốc gia đến ngày giải phóng
đặt ra trong phần đầu.
Nội dung toàn bài kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân
đứng lên bảo vệ non sông trong cơn nguy biến. Với lời kêu gọi
hùng hồn tha thiết và đầy ý nghĩa, "Công Dân" nên được dùng
là ca khúc cho các phong trào đấu tranh tự do dân chủ tại
Việt Nam. Ngoài ra, như đã trình bày ở trên, "Công Dân" nên
là quốc ca của nước Việt Nam khi chế độ cộng sản không còn
hiện hữu.
D. "Tiếng Gọi Công Dân" có giai điệu trầm bổng hùng
tráng, tiết tấu dồn dập, và lời ca phù hợp, cách diễn tả
hữu hiệu kêu gọi lòng ái quốc và hy sinh cho tổ quốc
Kelen (2015, 107) cho rằng một nghịch lý của quốc ca là
người hát và người nghe thường quên ý nghĩa lời ca. "Chúng
ta quên chúng ta đang hát gì; chúng ta quên ý nghĩa của các
chữ" (sđd.) Cái tác dụng mạnh mẽ được tạo ra tự động
(sđd., 108) vì người ta tham gia trong một tình trạng biểu
tượng chặt chẽ, thí dụ một nghi lễ tưởng niệm hoặc một
hoạt động thể thao quốc gia. Tôi không đồng ý hoàn toàn với
ý tưởng này, nhất là với "Công Dân." Một trong những lý do
"Công Dân" là bài quốc ca bất hủ là lời ca rất đáng nhớ
và gây tác dụng mạnh mẽ. Ít ai có thể quên được những từ
ngữ mạnh như "giải phóng," "thây phơi," "thù nước," "máu
đào," "hiến thân dưới cờ" và ý nghĩa của những chữ này.
Ngoài ra, các khía cạnh âm nhạc của "Công Dân" cũng đóng
góp rất nhiều trong việc tạo tác dụng lớn lao trên khán
giả.
1. Bài hát có giai điệu trầm bổng hào hùng và thánh
thót, tiết tấu thay đổi, giúp bài hát dễ hát và gây cảm
xúc mạnh trên khán giả:
Một trong những đặc tính quan trọng cho quốc ca là bài
hát phải dễ hát để ai cũng có thể hát được. Quốc ca là
bài hát cho toàn dân và không phải là bài hát cho ca sĩ.
Bản "Star-Spangled Banner," quốc ca của Hoa Kỳ, có tiếng là
khó hát, ngay cả cho ca sĩ chuyên nghiệp vì không ngân nổi
nốt nhạc cao hoặc quên lời nhạc (Wikipedia 2015d). Nhiều
người nói bài "Star-Spangled Banner" khó hát vì âm vực
(khoảng cách giữa nốt thấp nhất và nốt cao nhất trong bài)
vượt quá mức của giọng người thường, khoảng một quãng tám
rưỡi (an octave and a half) (Xem, thí dụ như, Klein 2013; Macko
2014). Tuy nhiên, âm vực một quãng tám rưỡi không đến nỗi
khó lắm. Lý do chính khiến người hát vấp ngã là giai điệu
thay đổi lung tung, nhảy lên nhảy xuống quá nhanh, như một
"con cá giẫy đành đạch trong thuyền chèo" (Klein 2013). Thí
dụ, đoạn khó nhất ("were so gallantly streaming? And the
rockets’ red glare") có giai điệu thay đổi quá nhanh, từ nốt
thấp nhất ("-ing" trong “streaming") tới nốt cao nhất ("red"),
một quãng tám (octave) rưỡi, trong vòng khoảng bốn nốt đen
với năm âm tiết (syllable). Người hát với giọng thường khó
mà thay đổi cao độ nhanh như vậy. Đoạn khó thứ nhì xảy ra
ở đoạn cuối ("the land of the free and the home of the brave"),
khi mà người hát đã mệt nhoài vì hết hơi nên không thể lên
cao được ở chữ "free" (Klein 2013). Như sẽ được trình bày
sau, "Công Dân" có cùng âm vực khoảng một quãng tám rưỡi,
nhưng cách sắp đặt giai điệu không tạo ra những khó khăn cho
người hát như bài "Star-Spangled Banner."
Một khái niệm quan trọng trong giai điệu là chuyển
động (movement, motion). Chuyển động là sự tiến triển của
các nốt nhạc đi với nhau. Có hai loại chuyển động: liên kết
(conjunct) và khác biệt (disjunct). Trong chuyển động liên
kết, giai điệu tiến triển từ một nốt sang nốt kế tiếp
từng nấc một (stepwise), tạo nên một nét nhẹ nhàng uyển
chuyển. Loại giai điệu này thường thích hợp cho cách diễn
tả tình cảm hoặc tả cảnh êm ả. Trong chuyển động khác
biệt, giai điệu tiến triển từ một nốt sang nốt kế tiếp qua
bước nhảy (leaps), tạo nên vẻ mạnh mẽ và "góc cạnh"
(Mitchell).
"Công Dân" có giai điệu phối hợp giữa chuyển động liên
kết và chuyển động khác biệt, giúp âm thanh có sắc thái
trầm bổng hào hùng và thánh thót. Âm điệu vì thế trở nên
linh động và lôi cuốn, rất thích hợp cho việc kêu gọi người
dân hy sinh cho tổ quốc. Chuyển động liên kết xảy ra trong câu
và chuyển động khác biệt xảy ra giữa một câu và câu kế
tiếp. Thí dụ hai câu "Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải
phóng" và "Đồng ḷng cùng đi hy sinh tiếc ǵ thân sống" có tiến
triển lên xuống chậm chạp trong mỗi câu, nhưng có tiến triển
đột ngột giữa hai câu (từ "phóng" trong câu đầu tới "Đồng"
trong câu kế), nghe như hai lớp sóng vỗ lên nhau. Đặc biệt,
từ câu "từ nay luôn vững bền" tới câu "Dù cho phơi thây trên gươm
giáo" có chuyển động khác biệt và dấu lặng, giúp cho hòa
âm được dễ dàng khi thay đổi hoặc nhấn mạnh một nhạc cụ
khác.
Tiết tấu thay đổi, lúc thì nhanh dồn dập, lúc thì
kéo dài tha thiết, thích hợp cho lời kêu gọi toàn dân.
Những nốt kéo dài cuối câu giúp cho khúc đoạn có xác định
rõ rệt, làm dễ dàng cho việc chuyển nhạc cụ trong hòa âm
đem lại nhịp điệu thay đổi và kích động. Thí dụ, hai câu
đầu có khí thế mạnh bạo dồn dập, nhưng chuyển tiếp giữa
"tiếc gì thân sống" và "Vì tương lai quốc dân" đem lại một
sắc thái trầm hùng thống thiết. Tất cả những chuyển động
liên kết và khác biệt này theo một cấu trúc khá cố định
khiến các câu ca vang lên như những đợt sóng nối tiếp nhau
trên một con sông lớn cuồn cuộn chảy hoặc sóng vỗ lên đá
trên bờ biển, để tạo nên một khí thế mạnh dần dẫn đến
phiên khúc chót.
Phiên khúc chót là phiên khúc độc đáo nhất và là cực
điểm của bài hát. Phiên khúc này bắt đầu bằng câu "Công Dân
ơi! Mau hiến thân dưới cờ!" có các nốt cao dẫn đến nốt cao
nhất vào chữ "dưới" được kéo dài để nhấn mạnh và tạo âm
hưởng. Đoạn này khởi đầu sau một đoạn được chấm dứt bằng
nốt nhạc thấp nhất của bài và một dấu lặng đơn ("Vang
tiếng người nước Nam cho đến muôn đời"), tạo nên một chuyển
động khác biệt, dứt khoát để chuẩn bị cho lời kêu gọi
hoành tráng với âm thanh vang vang cho các câu kế tiếp ("Công
Dân ơi! Mau làm cho cơi bờ/ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang ṇi giống")
dẫn đến câu kết khởi đầu bằng nốt cao nhất và xuống chậm
dần cho đến kết thúc toàn bài ("Xứng danh ngh́n năm gịng
giống Lạc Hồng!").
Khác với bài "Star-Spangled Banner" của Hoa Kỳ, đoạn
giữa nốt thấp nhất và nốt cao nhất được ngắt quãng bởi
dấu lặng đơn, giúp người hát có dịp nghỉ "lấy hơi." Ngoài
ra, đoạn này được kéo dài qua nhiều nốt với bảy âm tiết
("Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!") giúp người hát có thì
giờ chuẩn bị để lên cao giọng ở âm tiế́t "dưới" và kéo
dài xuống âm tiết "cờ" sau đó. Với cách dùng dấu lặng và
câu có nhiều âm tiết, tác giả giữ được sắc thái "góc
cạnh" của giai điệu lên cao mà không tạo ra khó khăn cho
người hát. "Tiếng Gọi Công Dân" do đó rất dễ hát, không đòi
hỏi người hát phải có giọng bao trùm âm vực lớn, và cũng
không đòi hỏi người hát phải luyện tập kỹ càng trước khi
hát.
Để hiểu và cảm nhận giai điệu trầm bổng, phối hợp
chuyển động liên kết và khác biệt, tiết tấu thay đổi giữa
dồn dập mạnh mẽ và nhẹ nhàng uyển chuyển, ta hãy nghe
phần trình bày nhạc hòa âm của dàn nhạc Ukraine, Ukrainia
National Presidential Orchestra, tại Kiev vào ngày 16 tháng 8
năm 2012, do sự hòa âm và phối khí của nhạc sĩ Lê Văn Khoa
(Buis 2012). Theo lời nhạc sĩ Lê Văn Khoa, phần trình diễn
này của dàn nhạc Ukrainia National Presidential Orchestra là
một trình diễn quốc ca VNCH xuất sắc nhất trong tất cả các
trình diễn mà ông biết.
2. Lời ca phù hợp với nhạc điệu, có lối diễn tả có
tính chất dân tộc, và cách dùng chữ hữu hiệu cho một bài
kêu gọi toàn dân đấu tranh vì tổ quốc:
Tác giả lời nhạc của "Công Dân," nhân viên Đài phát
thanh Sài Gòn, chỉ giữ lại vài từ ngữ trong phiên bản
"Thanh Niên" và hầu như viết lại toàn bộ lời nhạc cho thích
hợp là quốc ca của chính thể VNCH. Vì được viết cho một
quốc ca, lời nhạc đượm màu sắc dân tộc và quốc gia. Tác
giả lời ca biết cách phối hợp các kỹ thuật diễn tả và
dùng chữ hữu hiệu, gây cảm xúc mạnh trên khán giả.
Ngay trong nhan đề và rải rác khắp bài, chữ "công dân"
rất thích hợp cho lời kêu gọi toàn dân, và cũng tiện lợi
vì là thanh không dấu, thuận với âm điệu của nhạc, thay thế
thẳng cho "thanh niên" hoặc "sinh viên" cũng là các thanh không
dấu.
Câu "Này công dân ơi!" chất chứa niềm thương yêu cho đồng
bào. Như đã trình bày ở trên, câu này đi theo giai điệu có
chuyển động liên kết, tạo nên nét nhẹ nhàng êm ả, thích
hợp cho lời nhắn nhủ tâm tình, hoặc giải bày tâm sự. Chữ
"ơi" (và các chữ khác như "à") là một chữ độc đáo trong
tiếng Việt, hầu như không thể dịch được sang ngoại ngữ. Khi
dùng với "anh," "em, "mình," v.v., chữ "ơi/à" bộc lộ một
tình cảm nhẹ nhàng, kín đáo, và thương yêu cố hữu của
người Việt. Khi dùng với các danh từ hoặc đại từ khác,
chữ "ơi/à" có ý nghĩa tương tự tuy với chút giảm thiểu về
tình cảm. Chữ "này" là một chữ chứa đựng niềm thân thiện,
và cũng là một chữ độc đáo trong tiếng Việt khi dùng như
thán từ. "Này" và "ơi," do đó nói lên lời nhắn nhủ chứa
đựng tinh thần dân tộc, đồng bào, có tình thương yêu, và như
là lời của người dân nói với người dân, trong lúc giải bày
tâm sự, phân trần, hoặc biểu lộ cảm nghĩ cho một tình
trạng nào đó.
Trong khi "Này công dân ơi!" ở phiên khúc đầu nghe như
lời nhắn nhủ tâm tình, câu "Công dân ơi!" ở phiên khúc chót
là lời kêu gọi, thúc giục người dân thi hành nghĩa vụ công
dân của mình bảo vệ non sông. Như đã trình bày ở trên, lời
kêu gọi này đi theo nhạc điệu hùng tráng, với giai điệu bay
bổng lên cao, tạo nên khí thế mãnh liệt và kích động tâm
thần khán giả. Lời ca và nhạc điệu (giai điệu, tiết tấu)
do đó rất phù hợp nhau, tạo nên tác dụng mạnh vào cảm xúc
khán giả.
Tác gỉả dùng chữ rất hữu hiệu. Những hình ảnh cụ
thể được "cho thấy" bên cạnh những lời "kể" làm nổi bật ý
tưởng và có tác dụng mạnh trên khán giả. Thí dụ, "xông pha
khói tên," "thây phơi trên gươm giáo," "lấy máu đào," "hiến thân
dưới cờ." Những nhóm chữ này vẽ lên hình ảnh linh động, cụ
thể, và gợi ý mạnh mẽ. Câu "hiến thân dưới cờ" có nét
độc đáo vì ngoài tác dụng cho thấy hình ảnh cụ thể, nó
còn là một ẩn dụ tuyệt vời cho lòng miệt mài tận tụy
dâng hiến cuộc đời ("hiến thân") cho tổ quốc ("dưới cờ").
Hình ảnh lá cờ tượng trưng cho tổ quốc là một hình ảnh
thiêng liêng cao quý, và hành động "hiến thân dưới cờ" nói
lên lòng yêu nước vô bờ bến của người dân Việt Nam.
Tác giả duy trì vần điệu cho lời ca trôi chảy, dễ
nhớ. Một cách đặc sắc, tác giả tận dụng thanh vận cho
cách gieo vần: dùng vần trắc cho lời lẽ mạnh bạo ("giải
phóng/ thân sống," "gươm giáo/ đem báo") và vần bằng cho lời lẽ
nhẹ nhàng gợi tình cảm ("khói tên/ vững bền," "khắp nơi/ muôn
đời," "dưới cờ/ cơi bờ").
Tóm lại, lời ca trong "Công Dân" phù hợp với nhạc
điệu, có lối dùng chữ hữu hiệu, mang nét dân tộc, gây tác
dụng mạnh mẽ trên khán giả. Người nghe hoặc người hát khó
quên ý nghĩa của từ ngữ vì chính những từ ngữ này tạo
cảm xúc mạnh cho chính họ.
E. Kết Luận:
Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" kêu gọi toàn dân Việt Nam
đứng lên đấu tranh và hy sinh cho tổ quốc để gìn giữ bờ
cõi. Đây không phải chỉ là một bài quốc ca của VNCH mà nên
được coi là bài quốc ca của toàn thể nước Việt Nam. Toàn
dân Việt Nam, từ Nam ra Bắc, nên hãnh diện vì bài quốc ca
hùng hồn, đầy màu sắc dân tộc, và tha thiết kêu gọi toàn
dân hy sinh cho tổ quốc. Lịch sử nguồn gốc ca khúc này cho
thấy nước VNCH có toàn quyền sở hữu bản nhạc, và nói lên
tinh thần đồng bào dân tộc của người miền Nam Việt Nam không
tị hiềm việc tác gỉả điệu nhạc sau đó trở thành một
đảng viên cộng sản.
Với giai điệu trầm bổng có các chuyển động thích
hợp, tiết tấu thay đổi, và lời ca có bố cục chặt chẽ,
phù hợp với điệu nhạc, và diễn tả hữu hiệu lời kêu gọi
toàn dân trong tinh thần yêu nước thương nòi, "Tiếng Gọi Công
Dân" là một bản quốc ca bất hủ. Ca khúc "Tiếng Gọi Công
Dân" là biểu tượng độc đáo của toàn dân và quốc gia Việt
Nam, và nên được tôn trọng và duy trì mãi mãi trong và
ngoài nước Việt Nam.
Lá cờ vàng ba sọc đỏ đã phất phới bay cao trên nóc
nhà Nguyễn Viết Dũng tại Nghệ An. Chẳng bao lâu, ca khúc
"Tiếng Gọi Công Dân" sẽ được hát vang vang tại Sài Gòn, Hà
Nội, Huế, hoặc một thành phố đông dân nào đó tại Việt Nam.
CẢM TẠ
Tôi xin có lời cám ơn các bạn trên trang mạng Dân Làm
Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và
giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu
của bạn Babui.
15/05/2015
Cao-Đắc Tuấn
danlambaovn.blogspot.com
______________________________________
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Bạch Diện Thư Sinh. 2014. Tại sao Quốc Ca VNCH lại là một
bài hát của một Đảng viên CS? 26-1-2014.
http://tuxtini.com/2014/01/26/tai-sao-quoc-ca-vnch-lai-la-mot-bai-hat-cua-mot-dang-vien-cong-san/
(truy cập 2-5-2015).
2. Ban Kỹ Thuật Khóa 10A. 2009. Chào quốc kỳ Việt Nam
Cộng Hòa. 14-2-2009.
http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_VT/NMH/NH/CQK/LHCCSHTD_VT_NMH_NH_CQK.htm
(truy cập 11-5-2015).
3. Biển Nhớ. Không rõ ngày. Bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Ḥa Ra
Đời Như Thế Nào? Không rõ ngày.
http://www.dactrung.com/Bai-bv-351Bai_Quoc_Ca_Viet_Nam_Cong_Hoa_Ra_doi_Nhu_The_Nao.aspx
(truy cập 29-4-2015).
4. Buis, Francois. 2012. The National Anthem of the Republic
of Vietnam. 30-12-2012.
https://www.youtube.com/watch?v=w5Fvuhf3Q0g (truy cập
9-5-2015).
5. Buttinger, Joseph. 1967. Vietnam: A Dragon Embattled.
Volume I – From Colonialism to the Vietminh. Frederick A. Praeger,
New York, U.S.A.
6. Cao-Đắc, Tuấn. 2014. Những lừa đảo lịch sử của Hồ
Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. 2-10-2014.
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/10/nhung-lua-ao-lich-su-cua-ho-chi-minh-va.html
(truy cập 2-5-2015).
7. ConHoiThoConDauTranh. 2011. Tiếng Gọi Thanh Niên. 2-3-2011.
https://www.youtube.com/watch?v=Cj73q8aTc2Y (truy cập
9-5-2015).
8. CUNY School of Law. Không rõ ngày. IRAC/CRRACC Format.
Không rõ ngày.
http://www.law.cuny.edu/legal-writing/students/irac-crracc/irac-crracc-1.html
(truy cập 13-5-2015).
9. Hoàng Cơ Thụy. 2002. Việt Sử Khảo Luận Cuốn 4, từ
Đế quốc Việt Nam đến trận Điện Biên Phủ (3-1945 / 7-5-1954).
Nam Á (Sudasie). Paris, France.
10. Kelen, Christopher (Kit). 2015. Anthem Quality – National
Songs – A theoretical survey. Intellect, Bristol, U.K.
11. Klein, Randy. 2013. The Star Spangled Banner Is Not A
Song, or Is It? 3-7-2013.
http://www.americansongwriter.com/2013/07/star-spangled-banner-is-not-a-song-or-is-it/
(truy cập 9-5-2015).
12. Lê Hữu Mục.1990. Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục
Trung Nhật Kư. Văn-Bút Việt-Nam Hải Ngoại.
13. Macko, Kathryn Mary. 2014. Why is the national anthem so
hard to sing? 14-5-2014.
http://americanhistory.si.edu/blog/2014/05/why-is-the-national-anthem-so-hard-to-sing.html
(truy cập 9-5-2015).
14. Mallon, Thomas. 1989. Stolen Words. Updated with a new
afterword about the Internet. Hartcourt, Inc., Florida, U.S.A.
15. Marr, David G. 1995. Vietnam 1945 - The Quest for Power.
University of California Press, Berkeley and Los Angeles,
California, U.S.A.
16. McFarlane, Ben. 2014. The Law of Proprietary Estoppel.
Oxford University Press, Oxford, United Kingdom.
17. Mitchell, Danlee. Không rõ ngày. Elements of Music -
Part 3 and Part 4. Không rõ ngày.
http://trumpet.sdsu.edu/M345/Elements_of_Music3.html và
http://trumpet.sdsu.edu/M345/Elements_of_Music4.html (truy
cập 9-5-2015).
18. Nguyễn Ngọc Huy. Không rõ ngày. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt
Nam. Không rõ ngày.
http://www.lyhuong.net/uc/index.php/covang/309-309 (truy cập
4-5-2015).
19. Nguyễn Lưu Viên. Không rõ ngày. Những kỷ niệm với Bài
Quốc Ca của VNCH. Không rõ ngày.
http://namkyluctinh.org/a-lichsu/quochieuvn/nlvien-kyniemvoiquoccavnch.htm
(truy cập 11-5-2015).
20. Pappas, Theodore. 1998. Plagiarism and the Culture War:
The Writings of Martin Luther King, Jr., and Other Prominent
Americans. Revised and expanded edition. Hallberg Publishing
Corporation, Florida, U.S.A.
21. Quinn-Judge, Sophie. 2002. Ho Chi Minh: the Missing Years,
1919 – 1941. University of California Press, California, U.S.A.
22. Stearns, Laurie. 1999. Copy Wrong: Plagiarism, Process,
Property, and the Law, in “Perspectives on Plagiarism and
Intellectual Property in a Postmodern World,” Lise Buranen and Alice
M. Roy (Eds.), 5-17. State University of New York Press, New York,
U.S.A.
23. Thụy Khuê. 2012. Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn
Ái Quốc (Nhân Văn Giai Phẩm and the issue of Nguyễn Ái Quốc).
Tiếng Quê Hương, Virginia, U.S.A.
24. Trần Trọng Kim. 1969. Một Cơn Gió Bụi. Vĩnh Sơn.
Sài gòn. Việt Nam.
25. Vu Ngu Chieu. 1986. The other side of the 1945Vietnamese
Revolution: The Empire of Vietnam (March - August 1945). Journal of
Asian Studies XLV, No. 2 (Feb. 1986), 293-328.
26. Wikipedia. 2015a. Quốc gia Việt Nam. 16-3-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam
(truy cập 29-4-2015).
27. _________. 2015b. Thanh Niên Hành Khúc. Thay đổi chót:
9-4-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_ni%C3%AAn_h%C3%A0nh_kh%C3%BAc
(truy cập 29-4-2015).
28. _________. 2015c. Thanh niên Tiền phong. Thay đổi chót:
1-3-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_ni%C3%AAn_Ti%E1%BB%81n_phong
(truy cập 2-5-2015).
29. _________. 2015d. The Star-Spangled Banner. Thay đổi
chót: 28-4-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/The_Star-Spangled_Banner (truy
cập 29-4-2015).
30. _________. 2015e. Estoppel. 26-4-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Estoppel (truy cập 2-5-2015).
31. _________. 2015f. Tiến Quân Ca. 24-3-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFn_Qu%C3%A2n_Ca (truy
cập 2-5-2015).
32. _________. 2015g. Plagiarism. Thay đổi chót: 26-4-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Plagiarism (truy cập 3-5-2015).
33. _________. 2015h. Lưu Hữu Phước. Thay đổi chót:
1-4-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u_H%E1%BB%AFu_Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc
(truy cập 3-5-2015).
34. _________. 2015i. IRAC. Thay đổi chót: 22-4-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/IRAC (truy cập 13-5-2015).
© 2015 Cao-Đắc Tuấn
https://www.scrollmagazine.net/
https://www.smashingmagazine.com/articles/
https://www.thescrollmag.co.uk/
Vô Tổ Quốc Mất Danh Dự Vô Trách Nhiệm
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
THÁNG 10
Thành Tựu Lớn Nhất Của Trump & Những Thành Tựu Của Tồng Thống Sau 42 tháng. Kim Âu (st)
Donald Trump Học Ở Đại Học Nào? Kim Âu (st)
Donald Trump Trị Gía Bao Nhiêu? Kim Âu (st)
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Thời Trump Kim Âu (st)
Những Tội Phạm Tỷ Phú Kim Âu (st)
Coronavirus, Có Phải Là Vũ Khí Sinh Học Không? Kim Âu (st)
UN, WHO, Gates T́m Cách Thu Hút Quần Chúng Kim Âu (st)
Coronavirus Lockdown Những Chuyện Chưa Kể Kim Âu (st)
Nhận Thức Sai Lầm Về Virus Kim Âu (st)
Covid 19 Không Phải Là Một Loại Virus Mới Kim Âu (st)
Covid 19, Cuộc Lừa Đảo Vĩ Đại Kim Âu (st)
11 Thuyết Âm Mưu Kim Âu (st)
Vũ Hán, Từ Cách Mạng Văn Hóa Đến Covid 19 Kim Âu (st)
Covid 19= Nói Dối Hoàn Toàn Kim Âu (st)
Cuộc Điều Tra Của Thẩm Phán Durham Kim Âu (st)
Nếu Ứng Cử Viên Tổng Thống Qua Đời.. Điều Ǵ Sẽ Xảy Ra Kim Âu (st)
Bất Ngờ Tháng Mười 2020 Kim Âu (st)
Chủ Nghĩa Toàn Cầu vs Toàn Cầu Hóa Kim Âu (st)
Chỉ Có 6% Chết V́ COVID 19 Kim Âu (st)
Đọc: Death By China Kim Âu (st)
Trump's Agenda 2020 Kim Âu (st)
Những Ư Tưởng Nền Tảng Của Republican 2020 Kim Âu (st)
Truyền Thông Bất Lương Che GIấu 7 Sự Việc Quan Trọng Kim Âu (st)
Covid 19 Khai Thác Và Thao Túng Tâm Lư Sợ Hăi Kim Âu (st)
CoronavirusThay Đổi Thế Giới Vinh Viễn Kim Âu (st)
Trang Quyền Lợi Cử Tri (Voter) Kim Âu (st)
Kiểm Soát Dân Số: Hệ Tư Tưởng Ma Qủy Kim Âu (st)
Chiến Dịch Bôi Nhọ Các Bác Sĩ Xác Nhận Thuốc Trị Covid 19 Kim Âu (st)
Yale School of Public Health that was recently published in the American Journal of Epidemiology
Những Khoảnh Khắc Jane Phạm
Cờ Vàng Trong Tâm Tôi Christine Cao
Thôi Về Đi Con Christine Cao
Nợ Quốc Gia Dưới Thời Obama Kim Âu
Dư Luận Viên Báo Nói : Biến Tướng Của Hồng Vệ Binh Kim Âu
Event 21 Mẹ Đẻ Của COVID 19 Kim Âu
Khi Người Quốc Gia Trở Về Bùi Anh Trinh
Người Quốc Gia Hà Văn Sơn Về Nước Bùi Anh Trinh
Dân Chủ Với PheTa: Đó Là Dân Chủ Rừng Rú Kim Âu
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.contagionlive.com/news/cdc-reports-13-million-flu-cases-thus-far-in-201920-season
https://www.kff.org/other/state-indicator/influenza-and-pneumonia-death-rate/?c
https://www.state.gov/the-united-states-announces-assistance-to-combat-the-novel-coronavirus/
https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/cases-updates/cases-in-us.html
https://usafacts.org/visualizations/coronavirus-covid-19-spread-map/
Vai Tṛ Của Trung Cộng Trong Chiến Tranh Việt Nam Kim Âu -ST
VĂN HÓA - LỊCH SỬ
https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/99-01-02-7861
https://www.presidency.ucsb.edu/documents/proclamation-3204-obstruction-justice-the-state-arkansas
https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards - https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards_(USA)
TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Những Yếu Tố Thuận Lợi Giúp Cho Chữ Quốc Ngữ Latin Phát Triển
Hậu Qủa Thời Pháp Thuộc: Lịch Sử,Văn Hóa Việt Bị Xóa Trắng Kim Âu
Vatican 5 Lần Vận Động Ngoại Cường Xâm Lược Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang
Giáo Hội La Mă: Lịch Sử - Hồ Sơ Tội Ác Nguyễn Mạnh Quang
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc t́nh.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lư tŕnh.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
NGƯỜI QUỐC GIA ĐẶT QUYỀN LỢI CỦA TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC LÊN BẢN VỊ TỐI THƯỢNG. KHÔNG TRANH QUYỀN ĐOẠT LỢI CHO CÁ NHÂN, PHE NHÓM, ĐẢNG PHÁI HAY BẦY ĐÀN TÔN GIÁO CỦA M̀NH.
NGƯỜI QUỐC GIA BẢO VỆ LĂNH THỔ CỦA TIỀN NHẦN, GIỮ G̀N DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC, ĐĂI LỌC VÀ KẾT HỢP HÀI H̉A VỚI VĂN MINH VĂN HÓA TOÀN CẦU ĐỂ XÂY DỰNG CON NGƯỜI, XĂ HỘI VÀ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CƯỜNG THỊNH PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TIẾN BỘ CỦA NHÂN LOẠI.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu