at Capitol. June 19.1996
with Sen. JohnMc Cain
with Congressman Bob Barr
with General John K Singlaub
CNBC .Fox .FoxAtl .. CFR. CBS .CNN .VTV.
.WhiteHouse .NationalArchives .FedReBank
.Fed Register .Congr Record .History .CBO
.US Gov .CongRecord .C-SPAN .CFR .RedState
.VideosLibrary .NationalPriProject .Verge .Fee
.JudicialWatch .FRUS .WorldTribune .Slate
.Conspiracy .GloPolicy .Energy .CDP .Archive
.AkdartvInvestors .DeepState .ScieceDirect
.NatReview .Hill .Dailly .StateNation .WND
-RealClearPolitics .Zegnet .LawNews .NYPost
.SourceIntel .Intelnews .QZ .NewAme
.GloSec .GloIntel .GloResearch .GloPolitics
.Infowar .TownHall .Commieblaster .EXAMINER
.MediaBFCheck .FactReport .PolitiFact .IDEAL
.MediaCheck .Fact .Snopes .MediaMatters
.Diplomat .NEWSLINK .Newsweek .Salon
.OpenSecret .Sunlight .Pol Critique .
.N.W.Order .Illuminatti News.GlobalElite
.NewMax .CNS .DailyStorm .F.Policy .Whale
.Observe .Ame Progress .Fai .City .BusInsider
.Guardian .Political Insider .Law .Media .Above
.SourWatch .Wikileaks .Federalist .Ramussen
.Online Books .BREIBART.INTERCEIPT.PRWatch
.AmFreePress .Politico .Atlantic .PBS .WSWS
.NPRadio .ForeignTrade .Brookings .WTimes
.FAS .Millenium .Investors .ZeroHedge .DailySign
.Propublica .Inter Investigate .Intelligent Media
.Russia News .Tass Defense .Russia Militaty
.Scien&Tech .ACLU .Veteran .Gateway. DeepState
.Open Culture .Syndicate .Capital .Commodity
.DeepStateJournal .Create .Research .XinHua
.Nghiên Cứu QT .NCBiển Đông .Triết Chính Trị
.TVQG1 .TVQG .TVPG .BKVN .TVHoa Sen
.Ca Dao .HVCông Dân .HVNG .DấuHiệuThờiĐại
.BảoTàngLS.NghiênCứuLS .Nhân Quyền.Sài Gòn Báo
.Thời Đại.Văn Hiến .Sách Hiếm.Hợp Lưu
.Sức Khỏe .Vatican .Catholic .TS KhoaHọc
.KH.TV .Đại Kỷ Nguyên .Tinh Hoa .Danh Ngôn
.Viễn Đông .Người Việt.Việt Báo.Quán Văn
.TCCS .Việt Thức .Việt List .Việt Mỹ .Xây Dựng
.Phi Dũng .Hoa Vô Ưu.ChúngTa .Eurasia.
CaliToday .NVR .Phê Bình . TriThucVN
.Việt Luận .Nam Úc .Người Dân .Buddhism
.Tiền Phong .Xã Luận .VTV .HTV .Trí Thức
.Dân Trí .Tuổi Trẻ .Express .Tấm Gương
.Lao Động .Thanh Niên .Tiền Phong .MTG
.Echo .Sài Gòn .Luật Khoa .Văn Nghệ .SOTT
.ĐCS .Bắc Bộ Phủ .Ng.TDũng .Ba Sàm .CafeVN
.Văn Học .Điện Ảnh .VTC .Cục Lưu Trữ .SoHa
.ST/HTV .Thống Kê .Điều Ngự .VNM .Bình Dân
.Đà Lạt * Vấn Đề * Kẻ Sĩ * Lịch Sử *.Trái Chiều
.Tác Phẩm * Khào Cứu * Dịch Thuật * Tự Điển *
KIM ÂU -CHÍNHNGHĨA -TINH HOA - STKIM ÂU
CHÍNHNGHĨA MEDIA-VIETNAMESE COMMANDOS
BIÊTKÍCH -STATENATION - LƯUTRỮ -VIDEO/TV
DICTIONAIRIES -TÁCGỈA-TÁCPHẨM - BÁOCHÍ . WORLD - KHẢOCỨU - DỊCHTHUẬT -TỰĐIỂN -THAM KHẢO - VĂNHỌC - MỤCLỤC-POPULATION - WBANK - BNG ARCHIVES - POPMEC- POPSCIENCE - CONSTITUTION
VẤN ĐỀ - LÀMSAO - USFACT- POP - FDA EXPRESS. LAWFARE .WATCHDOG- THỜI THẾ - EIR.
ĐẶC BIỆT
The Invisible Government Dan Moot
The Invisible Government David Wise
ADVERTISEMENT
Le Monde -France24. Liberation- Center for Strategic- Sputnik
https://www.intelligencesquaredus.org/
Space - NASA - Space News - Nasa Flight - Children Defense
Pokemon.Game Info. Bách Việt Lĩnh Nam.US Histor. Insider
World History - Global Times - Conspiracy - Banking - Sciences
World Timeline - EpochViet - Asian Report - State Government
https://lens.monash.edu/@politics-society/2022/08/19/1384992/much-azov-about-nothing-how-the-ukrainian-neo-nazis-canard-fooled-the-world
with General Micheal Ryan
US DEBT CLOCK . WORLDOMETERS . TRÍ TUỆ MỸ . SCHOLARSCIRCLE. CENSUS - SCIENTIFIC - COVERTACTION
EPOCH - ĐKN - REALVOICE - JUSTNEWS - NEWSMAX - BREIBART - WARROOM - REDSTATE - PJMEDIA - EPV - REUTERS
AP - NTD - REPUBLIC - VIỆT NAM - BBC - VOA - RFI - RFA - HOUSE - TỬ VI - VTV - HTV - PLUTO - BLAZE - INTERNET - SONY - CHINA - SINHUA - FOXNATION - FOXNEWS - NBC - ESPN - SPORT - ABC- LEARNING - IMEDIA - NEWSLINK - WHITEHOUSE- CONGRESS - FED REGISTER - OAN - DIỄN ĐÀN - UPI - IRAN - DUTCH - FRANCE 24 - MOSCOW - INDIA - NEWSNOW NEEDTOKNOW - REDVOICE - NEWSPUNCH - CDC - WHO - BLOOMBERG - WORLDTRIBUNE - WND - MSNBC- REALCLEAR
POPULIST PRESS - PBS - SCIENCE - HUMAN EVENT - REPUBLIC BRIEF - AWAKENER - TABLET - AMAC - LAW - WSWS - PROPUBICA -INVESTOPI-CONVERSATION - BALANCE - QUORA - FIREPOWER - GLOBAL- NDTV- ALJAZEER- TASS- DAWN
NATURAL- PEOPLE- BRIGHTEON - CITY JOURNAL- EUGENIC
NHẬN ĐỊNH - QUAN ĐIỂM
John Perkin author of "The Confession of An Economic Hitman"
Lời thú tội của sát thủ kinh tế
Lời thú tội của sát thủ kinh tế là cuốn sách bán tự truyện được viết
bởi John Perkins , xuất bản lần đầu năm 2004. [1] [2]
Cuốn sách kể về sự nghiệp của Perkins với công ty tư vấn kỹ thuật
Chas. T. Main ở Boston. Perkins tuyên bố rằng NSA đã sắp xếp để anh
ta được công ty thuê, và sau đó anh ta đã bị một nữ doanh nhân bí ẩn
tên là Claudine dụ dỗ và huấn luyện thành một "sát thủ kinh tế".
Perkins viết rằng vai trò chính của ông tại Chas T. Main là thuyết
phục các nhà lãnh đạo của các nước kém phát triển chấp nhận các
khoản vay phát triển đáng kể cho các dự án xây dựng và kỹ thuật lớn,
do đó bẫy họ vào một hệ thống ảnh hưởng và kiểm soát của Mỹ.
Cuốn sách thành công về mặt thương mại, nhưng các nhà phê bình bày
tỏ nghi ngờ về tính chính xác của những tuyên bố mà Perkins đưa ra
trong Lời thú tội của một sát thủ kinh tế . Perkins được một nhà phê
bình coi là người theo thuyết âm mưu, trong khi một số đồng nghiệp
cũ tại Chas T. Main phản đối hoặc không đồng ý với một số cáo buộc
của ông. Một số người đánh giá đã thảo luận về việc thiếu tài liệu
hoặc xác minh cho các tuyên bố của Perkins.
Nội dung
Cuốn sách kể về sự nghiệp của Perkins với công ty tư vấn kỹ thuật
Chas. T. Main ở Boston. Perkins tuyên bố có sự tham gia của Cơ quan
An ninh Quốc gia (NSA), người mà anh ta đã phỏng vấn xin việc trước
khi gia nhập Main. Theo tác giả, cuộc phỏng vấn này đã tạo thành một
cuộc sàng lọc độc lập một cách hiệu quả dẫn đến việc Einar Greve,
[3] phó chủ tịch của công ty (và được cho là liên lạc viên của NSA)
sau đó thuê ông làm 'sát thủ kinh tế' . Perkins tuyên bố rằng anh ta
đã bị dụ dỗ và huấn luyện thành một "sát thủ kinh tế" bởi một nữ
doanh nhân bí ẩn tên là Claudine, người đã sử dụng hồ sơ cá nhân NSA
của anh ta để thao túng và kiểm soát anh ta. [4]
Theo Perkins, công việc của ông tại công ty là thuyết phục các nhà
lãnh đạo của các nước kém phát triển chấp nhận các khoản vay phát
triển đáng kể cho các dự án xây dựng và kỹ thuật lớn. Đảm bảo rằng
các dự án này được ký hợp đồng với các công ty Hoa Kỳ, các khoản vay
như vậy mang lại ảnh hưởng chính trị cho Hoa Kỳ và khả năng tiếp cận
tài nguyên thiên nhiên cho các công ty Hoa Kỳ, [1] : 15, 239 , do
đó chủ yếu giúp đỡ giới tinh hoa địa phương và các gia đình giàu có,
hơn là người nghèo.
Cuốn sách chỉ trích nặng nề chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và quan
điểm cho rằng "mọi sự tăng trưởng kinh tế đều mang lại lợi ích cho
loài người, và tăng trưởng càng lớn thì lợi ích càng lan rộng". [1]
: xii Perkins gợi ý rằng, trong nhiều trường hợp, chỉ một phần nhỏ
dân số được hưởng lợi bằng chi phí của phần còn lại, ví dụ như chỉ
ra sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập , theo đó các tập đoàn lớn của
Hoa Kỳ khai thác lao động giá rẻ , và các công ty dầu mỏ phá hủy môi
trường địa phương. [1] : xii
Perkins mô tả cái mà ông gọi là hệ thống tập đoàn trị và lòng tham
là động lực đằng sau việc thiết lập Hoa Kỳ thành một đế chế toàn
cầu, trong đó ông đóng vai trò là "sát thủ kinh tế" để mở rộng ảnh
hưởng của nó. Với tư cách này, Perkins kể lại các cuộc gặp gỡ của
ông với một số cá nhân nổi bật, bao gồm Graham Greene và Omar
Torrijos . Perkins mô tả vai trò của một sát thủ kinh tế như sau:
Sát thủ kinh tế (EHM) là những chuyên gia được trả lương cao, chuyên
lừa đảo các quốc gia trên toàn cầu hàng nghìn tỷ đô la. Họ chuyển
tiền từ Ngân hàng Thế giới, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(USAID) và các tổ chức "viện trợ" nước ngoài khác vào kho bạc của
các tập đoàn lớn và túi của một số gia đình giàu có kiểm soát tài
nguyên thiên nhiên của hành tinh. Các công cụ của họ bao gồm báo cáo
tài chính gian lận, bầu cử gian lận, hoàn trả, tống tiền, tình dục
và giết người. Họ chơi một trò chơi lâu đời như đế chế, nhưng một
trò chơi đã mang những chiều hướng mới và đáng sợ trong thời kỳ toàn
cầu hóa này. [ cần dẫn nguồn ]
Tiếp nhận và phê bình
Mặc dù độ chính xác của nội dung đã bị nghi ngờ, nhưng cuốn sách đã
bán rất chạy, lọt vào danh sách bán chạy nhất của cả New York Times
và Amazon . [5]
Nhà báo chuyên mục Sebastian Mallaby của The Washington Post đã phản
ứng gay gắt với cuốn sách của Perkins: "Người đàn ông này là một nhà
lý thuyết âm mưu sôi nổi, một kẻ bán rong khoe khoang những điều vô
nghĩa, nhưng cuốn sách của ông ta, Lời thú tội của một sát thủ kinh
tế , lại là một cuốn sách bán chạy nhất." [6] Mallaby cho rằng quan
niệm của Perkins về tài chính quốc tế "phần lớn là một giấc mơ" và
rằng "những lập luận cơ bản của ông hoàn toàn sai lầm." [6] Ví dụ,
ông chỉ ra rằng Indonesia đã giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và mù
chữtăng hai phần ba sau khi các nhà kinh tế thuyết phục các nhà lãnh
đạo của nó vay tiền vào năm 1970. Ông cũng bác bỏ tuyên bố của
Perkins rằng 51 trong số 100 nền kinh tế hàng đầu thế giới thuộc về
các công ty. [7]
Các nguồn khác, bao gồm các bài báo trên Thời báo New York và Tạp
chí Boston , cũng như thông cáo báo chí do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
(DOS) đưa ra, đã đề cập đến việc thiếu tài liệu hoặc bằng chứng
chứng thực để chứng thực tuyên bố của Perkins rằng NSA có liên quan
trong việc thuê Chas T. Main . Ngoài ra, tác giả của bản phát hành
DOS tuyên bố rằng NSA "là một tổ chức mật mã (tạo mã và phá mã ),
không phải là một tổ chức kinh tế" và các nhiệm vụ của nó không liên
quan đến "bất cứ điều gì giống như đặt các nhà kinh tế học tại các
công ty tư nhân để tăng nợ nước ngoài”. [số 8]
Nhà sử học kinh tế Niall Ferguson giải quyết một số tuyên bố của
Perkins trong cuốn sách The Ascent of Money (2008) năm 2008. Perkins
cho rằng các nhà lãnh đạo của Ecuador (Tổng thống Jaime Roldós
Aguilera ) và Panama (Tướng Omar Torrijos ) đã bị đặc vụ Hoa Kỳ giết
vì chống lại lợi ích của các chủ sở hữu nợ nước ngoài của nước họ.
Cả hai người đàn ông đều chết trong vụ tai nạn máy bay năm 1981.
Theo Ferguson, những cáo buộc của Perkins "có vẻ hơi kỳ quặc."
[9]Ferguson lưu ý rằng trong những năm 1970, số tiền mà Hoa Kỳ cho
Ecuador và Panama vay chiếm chưa đến 0,4% tổng số tiền viện trợ và
cho vay của Hoa Kỳ, trong khi vào năm 1990, xuất khẩu từ Hoa Kỳ sang
các nước này chiếm khoảng 0,4%. tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ
(khoảng 8 tỷ USD ). Ferguson cho rằng những người đó "có vẻ không
phải là những con số đáng để giết." [9]
Chas. Cựu phó chủ tịch của T. Main, Einar Greve, người đầu tiên đề
nghị Perkins làm việc tại công ty, [1] : 10 đồng ý rằng nợ nước
ngoài là một chiến lược kinh tế tồi đối với các quốc gia đang phát
triển: [10]
Về cơ bản, câu chuyện của anh ấy là có thật.… Cuốn sách của John nói
rằng, có một âm mưu nhằm đặt tất cả các quốc gia này vào thế bí, và
điều đó đã xảy ra. Cho dù đó có phải là một âm mưu thâm độc nào đó
hay không thì còn tùy thuộc vào cách giải thích, nhưng nhiều quốc
gia trong số này vẫn đang ở trong tình trạng quá tải và chưa bao giờ
có khả năng trả các khoản vay.
Tuy nhiên, Greve phủ nhận nhiều khía cạnh trong tuyên bố của
Perkins, chẳng hạn như NSA có bất kỳ mối liên hệ nào với Main hay
việc Perkins bị Claudine Martin dụ dỗ, nói rằng anh ấy tin rằng
Perkins đã thuyết phục bản thân rằng câu chuyện của anh ấy là chính
xác. [11] Tạp chí Boston lưu ý rằng Perkins có thể cung cấp rất ít
tài liệu để hỗ trợ cho những tuyên bố về âm mưu quốc tế của mình, mô
tả một "gói tài liệu mỏng manh" phần lớn không thuyết phục. [11] Một
số đồng nghiệp cũ của Perkins không đồng ý với quan điểm của ông về
công ty và mâu thuẫn với những tuyên bố cụ thể mà ông đưa ra; Frank
Fullerton, một trong những người giám sát của anh ấy, nói rằng
Perkins rời Chas T. Main vì anh ấy "nghĩ rằng mình đáng giá hơn
những gì anh ấy vốn có." [11]
Các tác phẩm khác
Perkins tiếp tục viết bốn cuốn sách khác về chủ đề 'sát thủ kinh
tế', tập trung vào các khía cạnh khác:
Trò chơi xưa như đế chế: Thế giới bí mật của sát thủ kinh tế và mạng
lưới tham nhũng toàn cầu (2007);
Lịch sử bí mật của đế chế Mỹ: Sự thật về sát thủ kinh tế, Jackals và
cách thay đổi thế giới (2007); [12]
Hoodwinked: Một sát thủ kinh tế tiết lộ lý do tại sao thị trường tài
chính thế giới bùng nổ – và những gì chúng ta cần làm để tái tạo
chúng (2009); [13] và
Lời thú tội mới của sát thủ kinh tế (2016). [14] [15]
Phim tài liệu
Năm 2009, Stelios Kouloglou đạo diễn một bộ phim tài liệu do Hy Lạp
– Hoa Kỳ đồng sản xuất có tựa đề Lời thú tội của một sát thủ kinh tế
, kể về các cuộc phỏng vấn với Perkins được quay từ năm 2007 đến
2008. Bộ phim đã được chiếu tại các liên hoan phim trên khắp Hoa Kỳ.
Đánh giá sách: Lời thú tội của sát thủ kinh tế Phiên bản thứ 3 –
Chiến lược EHM của Trung Quốc; Các cách để ngăn chặn việc tiếp quản
toàn cầu, bởi John Perkins
giày patin nữgiày patin nữCông nghệ & Đổi mớiNgày 23 tháng 2 năm
2023
John Perkins
Sức mạnh kinh tế có mặt tối của nó, điều đó chúng ta biết. Khi John
Perkins tự nhận mình là “sát thủ kinh tế” lần đầu tiên xuất bản Lời
thú tội của một sát thủ kinh tế vào năm 2004 , những tiết lộ của nó
về cách thức hoạt động thực sự của sức mạnh kinh tế đã khiến nhiều
người sửng sốt. Perkins làm việc tại một công ty tư vấn lớn, thuyết
phục các nước kém phát triển nhưng có tầm quan trọng chiến lược
(Panama là một ví dụ) chấp nhận các khoản vay lớn với các điều khoản
thanh toán không thể thực hiện được cho các dự án phát triển cơ sở
hạ tầng được ký hợp đồng với các tập đoàn Mỹ.
Mang trong mình những khoản nợ mà họ không thể trả, các quốc gia bị
kiểm soát bởi Hoa Kỳ, Ngân hàng Thế giới và các cơ quan viện trợ
khác. Hệ thống này đã giữ cho Hoa Kỳ nắm quyền trong nhiều thập kỷ
và đảm bảo rằng các nước đang phát triển vẫn nằm dưới sự kiểm soát
của Hoa Kỳ.
Cuốn sách nhanh chóng leo lên danh sách bán chạy nhất của NYTimes và
Amazon. Kể từ đó, chúng ta đã chứng kiến thêm hai thập kỷ động lực
toàn cầu cho thấy tầm ảnh hưởng, sự sung túc và sự đe dọa đóng vai
trò cực kỳ mạnh mẽ trên sân khấu kinh tế toàn cầu. Nhưng cán cân
quyền lực đã thay đổi với sự trỗi dậy của Trung Quốc để trở thành
một cường quốc kinh tế toàn cầu đáng gờm, thực hiện hành vi đe dọa
có hệ thống để củng cố vị thế của mình.
Một sự thay đổi khác: hành tinh đang nóng lên, nhưng tăng trưởng
kinh tế vẫn tiếp tục nhanh chóng, bất kể những hậu quả đã biết. Tuy
nhiên, một sự thay đổi khác: đại dịch đã chứng minh chúng ta dễ bị
tổn thương và liên kết với nhau như thế nào.
Nếu bạn từng cảm thấy cần một chuyên gia lôi cuốn để làm rõ điều gì
đang thực sự diễn ra ngay bây giờ, thì John Perkins đã trở lại — và
rất đúng lúc. Phiên bản mới của bài báo kinh điển của ông, Lời thú
tội của một sát thủ kinh tế, Phiên bản thứ 3: Chiến lược EHM của
Trung Quốc; Ways to Stop the Global Takeover , giải quyết một cách
khéo léo các sự kiện ngày nay, đặc biệt là sự tung hoành của Trung
Quốc.
Kết quả cuối cùng: những gì thực sự diễn ra trong biên niên sử của
sức mạnh kinh tế tồi tệ hơn những gì hầu hết chúng ta có thể tưởng
tượng, và nó gây ra những hậu quả to lớn. Nhưng Perkins không cần
phải tưởng tượng bất kỳ điều gì để giải thích. Anh ấy đã sống nó, và
anh ấy biết điều đó như một người trong cuộc mới có thể. Các đế chế
kinh tế vẫn đang sử dụng những sát thủ kinh tế để làm công việc bẩn
thỉu của họ. Sự khác biệt bây giờ là chúng ta đang hướng tới một
thảm họa toàn hành tinh trừ khi chúng ta có thể ngăn chặn nó.
Với những lợi ích cao này, quan điểm của Perkins là không thể thuyết
phục: thật khó để bỏ qua Nền kinh tế chết chóc, như Perkins gọi là
tham nhũng toàn cầu và vũ trang mạnh mẽ đang lấy đi hành tinh — và
con người của nó — xuống. Hàng chục chương mới trong ấn bản này xem
xét cách Trung Quốc hiện đang triển khai chiến lược EHM không giới
hạn trên khắp thế giới, từ Châu Âu đến Châu Mỹ Latinh đến Châu Phi
và từ Châu Á đến Trung Đông.
Như Perkins đã viết, “Chiến lược sát thủ kinh tế (EHM)… đã có những
quy mô mới và đáng ngại sau khi Trung Quốc bước vào cuộc cạnh tranh
vào đầu những năm 2000.” Ông nói tiếp: “Việc tiếp quản EHM toàn cầu
[của Trung Quốc] đã trở nên rộng rãi và thành công đến mức động lực
và sự nguy hiểm của nó cần nhận được sự chú ý của mọi người. Trung
Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất với các quốc gia trên mọi
châu lục.
Dựa trên cả bốn trụ cột của chiến lược EHM, nó đã đánh bại Hoa Kỳ về
năng lượng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và phát triển cơ
sở hạ tầng khác trên khắp thế giới.”
Chỉ cần làm rõ, bốn trụ cột của chiến lược EHM bao gồm nỗi sợ hãi,
nợ nần, lo lắng về sự thiếu thốn (chẳng hạn như thực phẩm, nhà ở và
bây giờ là nước), và phân chia và chinh phục. Cho đến nay, chúng đã
là những tác phẩm kinh điển, nhưng như Perkins khẳng định, Trung
Quốc đã tăng cường đáng kể sức mạnh của bốn trụ cột này với thành
công vang dội.
Anh ấy đưa ra trường hợp chuyển Nền kinh tế chết chóc đó sang Nền
kinh tế sự sống, sử dụng tất cả khả năng thuyết phục, lý lẽ và sự
thống nhất mà các nhà lãnh đạo thế giới và tập đoàn có thể làm được.
Đó có thể là điều khiến cuốn sách này trở nên hấp dẫn: chúng ta biết
rằng bỏ qua động lực này và lời kêu gọi hành động của ông có thể
đồng nghĩa với tận thế. Có một cách tốt hơn, và nó bắt đầu với kiến
thức.
Lời thú tội của sát thủ kinh tế Phiên bản thứ 3 – Chiến lược EHM của
Trung Quốc; Các cách để ngăn chặn việc tiếp quản toàn cầu (BK
Publishers, ngày 28 tháng 2 năm 2023) của John Perkins .
Bạn đã đọc chưa?
Các trường kinh doanh tốt nhất thế giới năm 2023 .
Các trường thời trang tốt nhất thế giới năm 2022 .
Các trường quản lý khách sạn và khách sạn tốt nhất thế giới năm 2022
.
Các trường y khoa tốt nhất thế giới năm 2022 .
Các trường đại học đào tạo tiến sĩ quản trị kinh doanh (DBA) tốt
nhất thế giới, 2022 .
Các chủ ngân hàng kiểm soát thế giới
Bởi Edward Jay Epstein Thứ hai, ngày 11 tháng 4 năm 2011
Một số con bọ vàng đã cáo buộc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế dàn dựng
cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 để lật đổ đồng đô la. Tường
thuật về chuyến viếng thăm trụ sở chính của BIS ở Thụy Sĩ, được xuất
bản lần đầu trên tạp chí Harper's năm 1983, đã được tác giả cập nhật
cho RIJ.
“Một tòa thành cao chót vót, nơi thực chất là một quốc gia có chủ
quyền được gọi là Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, nằm ở Basel, Thụy
Sĩ. Ngân hàng hiện kiểm soát các vấn đề tài chính của hành tinh Trái
đất”—từ Crisis by Design: The Untold Story of the Global Financial
Coup , John Truman Wolfe (Roberts Ross, 2010).
Trong nhiều thập kỷ, ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung
ương, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế đã bị cáo buộc dàn dựng cuộc
khủng hoảng tài chính gần đây nhằm làm suy yếu đồng đô la. Vào đầu
những năm 1980, phóng viên Edward Jay Epstein đã đến thăm BIS và
viết về nó cho tạp chí Harper . Được cập nhật cho RIJ, tài khoản đầu
tay của anh ấy vẫn là một trong số ít hồ sơ độc lập của BIS.
Mười lần một năm—mỗi lần một lần trừ tháng 8 và tháng 10—một nhóm
nhỏ gồm những người đàn ông ăn mặc bảnh bao đến Basel, Thụy Sĩ. Mang
theo túi qua đêm và hộp tùy viên, họ kín đáo đăng ký vào khách sạn
Euler, đối diện ga xe lửa.
Họ đến thành phố buồn ngủ này từ những nơi khác nhau như Tokyo,
London và Washington, DC, để dự cuộc họp thường kỳ của câu lạc bộ
siêu quốc gia độc quyền, bí mật và quyền lực nhất trên thế giới. Khi
ở đây, họ được phục vụ đầy đủ bởi tài xế, đầu bếp, lính canh, người
đưa tin, phiên dịch viên, người viết tốc ký, thư ký và nhà nghiên
cứu. Để thư giãn, có một câu lạc bộ đồng quê hẻo lánh gần đó với các
sân tennis và hồ bơi.
Tư cách thành viên của câu lạc bộ này chỉ giới hạn trong một số ít
những người có quyền lực, những người quyết định hàng ngày lãi suất,
khả năng cung cấp tín dụng và nguồn cung tiền của các ngân hàng ở
quốc gia của họ. Họ bao gồm các thống đốc của Cục Dự trữ Liên bang
Hoa Kỳ, Ngân hàng Anh, Ngân hàng Nhật Bản, Ngân hàng Quốc gia Thụy
Sĩ và Bundesbank của Đức.
Mục đích rõ ràng của xã hội ưu tú này là đưa ra các quyết định nhằm
gây ảnh hưởng và nếu có thể, kiểm soát tất cả các hoạt động tiền tệ
trong thế giới công nghiệp hóa. Nơi câu lạc bộ này gặp nhau ở Basel
là một tổ chức tài chính duy nhất có tên là Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế—hay đơn giản hơn là BIS (phát âm là “biz” trong tiếng Đức).
Nguồn gốc của BIS
BIS được thành lập vào tháng 5 năm 1930 bởi một nhóm nhỏ các chủ
ngân hàng trung ương để thu thập và giải quyết các khoản thanh toán
bồi thường khổng lồ trong Thế chiến thứ nhất của Đức (do đó có tên
như vậy). Những lãnh chúa tài chính này đã tổ chức nó như một ngân
hàng thương mại với cổ phần được nắm giữ công khai. Quyền lực của họ
lớn đến mức một hiệp ước quốc tế được ký kết tại The Hague năm 1930
đã đảm bảo ngân hàng được miễn trừ khỏi sự can thiệp của chính phủ,
và thậm chí là đánh thuế, trong cả thời bình và chiến tranh.
Những người gửi tiền của nó, các ngân hàng trung ương của thế giới,
cũng cất giữ nhiều vàng của họ ở đó. Vì các ngân hàng trung ương
cung cấp cho nó lợi nhuận trên mỗi giao dịch, nên nó không cần bất
kỳ khoản trợ cấp nào từ bất kỳ tiểu bang nào, khiến nó thực sự trở
thành một siêu chính phủ tài chính. Quốc hội chính thức từ chối cho
phép Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ tham gia vào BIS, hoặc chấp nhận cổ
phần trong đó (thay vào đó được ủy thác bởi First National City
Bank). Nhưng chủ tịch Fed đã lặng lẽ đến Basel để tham dự các cuộc
họp quan trọng nhằm đối phó với những cơn hoảng loạn tài chính bùng
phát ở Áo, Hungary, Nam Tư và Đức vào những năm 1930, đồng thời ngăn
chặn sự sụp đổ của hệ thống tài chính toàn cầu.
Các giám đốc ngân hàng trung ương này phải bí mật điều phối các nỗ
lực giải cứu của họ, và địa điểm gặp gỡ cung cấp cho họ vỏ bọc cần
thiết là BIS, nơi họ thường xuyên đến để thu xếp các giao dịch hoán
đổi vàng và dàn xếp thiệt hại do chiến tranh. Chính sách tiền tệ thế
giới rõ ràng là quá quan trọng để giao cho các chính trị gia quốc
gia. Ngay cả trong Thế chiến II, khi các quốc gia, nếu không phải là
ngân hàng trung ương của họ, là những kẻ hiếu chiến, BIS vẫn tiếp
tục hoạt động ở Basel. Các cuộc họp hàng tháng tạm thời bị đình chỉ
vào năm 1944, sau những cáo buộc của Séc rằng BIS đang rửa vàng mà
Đức quốc xã đã đánh cắp từ châu Âu bị chiếm đóng.
Sau chiến tranh, chính phủ Mỹ ủng hộ một nghị quyết kêu gọi thanh lý
BIS. Ý tưởng ngây thơ là Quỹ Tiền tệ Quốc tế mới có thể đảm nhận các
chức năng thanh toán và bù trừ tiền tệ của BIS. Tuy nhiên, thứ không
thể thay thế được là thứ tồn tại đằng sau lớp mặt nạ của một cơ quan
thanh toán bù trừ quốc tế: một tổ chức siêu quốc gia để thiết lập và
thực hiện chiến lược tiền tệ toàn cầu, điều mà một cơ quan quốc tế
dân chủ như Liên hợp quốc không thể thực hiện được.
Các giám đốc ngân hàng trung ương, không muốn cho phép bất kỳ ai lấy
câu lạc bộ của họ, đã lặng lẽ dập tắt nghị quyết của Mỹ. Thật vậy,
BIS đã phát triển mạnh mẽ hơn và tỏ ra đặc biệt hữu ích đối với Hoa
Kỳ trong những năm Chiến tranh Lạnh.
Khi đồng đô la bị tấn công vào những năm 1960, các giao dịch hoán
đổi tiền và vàng khổng lồ đã được sắp xếp tại BIS để bảo vệ đồng
tiền của Mỹ. Không thể phủ nhận rằng một điều mỉa mai là, như chủ
tịch của BIS đã nhận xét, “Hoa Kỳ, vốn muốn tiêu diệt BIS, đột nhiên
thấy nó không thể thiếu được.”
Cho đến cuối những năm 1970, các ngân hàng trung ương tìm kiếm sự ẩn
danh hoàn toàn cho các hoạt động của mình đến mức họ duy trì trụ sở
chính tại một khách sạn sáu tầng bỏ hoang, Grand et Savoy Hotel
Universe, với một tòa nhà phụ phía trên Cửa hàng sô cô la Frey liền
kề. Vì cố tình không có biển báo trên cửa để xác định BIS, nên các
chủ ngân hàng trung ương và đại lý vàng đến thăm đã sử dụng Frey's,
đối diện với ga xe lửa, như một điểm mốc thuận tiện.
Trong những căn phòng ốp gỗ phía trên cửa hàng và khách sạn, các
quyết định đã được đưa ra nhằm phá giá hoặc bảo vệ tiền tệ, cố định
giá vàng, điều chỉnh hoạt động ngân hàng nước ngoài và tăng hoặc
giảm lãi suất ngắn hạn. Và mặc dù ngân hàng đã định hình một trật tự
thế giới mới, nhưng công chúng, kể cả ở Basel, hầu như không hề hay
biết về các hoạt động của nó.
Một tour du lịch có hướng dẫn hiếm hoi
BIS đã nới lỏng phần nào niềm đam mê giữ bí mật này và, chống lại sự
đánh giá tốt hơn của một số thành viên, đã chuyển đến một tòa nhà
chọc trời hình trụ mười tám tầng hiệu quả hơn, khi tôi được Karl
Otto Pohl mời đến trụ sở chính vào năm 1983, với tư cách là chủ
tịch. của ngân hàng trung ương Đức, thuộc câu lạc bộ nội bộ của BIS.
Trước đó, tôi đã phỏng vấn Pohl cho tạp chí Institutional Investor ,
và anh ấy đã phàn nàn với tôi, trong bữa trưa có xúc xích và bia ở
tầng trên cùng của ngân hàng Bundesbank ở Frankfurt, về sự lặp đi
lặp lại của các cuộc họp mà anh ấy phải tham dự tại BIS.
“Đầu tiên là cuộc họp tại Gold Pool, sau đó, sau bữa trưa, những
gương mặt tương tự xuất hiện tại G-10. Ngày hôm sau có hội đồng loại
trừ Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada, sau đó là cuộc họp của Cộng đồng
Châu Âu loại trừ Thụy Điển và Thụy Sĩ. Nhưng những cuộc họp này
không phải là nơi công việc kinh doanh thực sự được thực hiện,” ông
nói. Điều đó đã được thực hiện tại “câu lạc bộ bên trong” bao gồm
Pohl. Vì Pohl đang nói với tôi về sức mạnh của anh ấy, nên vào cuối
bữa trưa nhàn nhã của chúng tôi, tôi hỏi anh ấy liệu anh ấy có thể
sắp xếp một chuyến thăm cho tôi không. “Tại sao không,” anh ấy trả
lời, “Bạn có thể phỏng vấn Chủ tịch Fritz Leutwiler của nó.”
Khi tôi đến Basel vào tuần sau, không thể nhầm lẫn đó là trụ sở
chính của BIS. Được biết đến với cái tên “Tháp Basel”, nó mọc lên
trên thành phố thời trung cổ giống như một lò phản ứng hạt nhân đặt
sai vị trí. Tôi ngay lập tức được đưa đến văn phòng của Tiến sĩ
Leutwiler, mặc dù có quyền lực nhưng lại có quy mô khiêm tốn. Ông
bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng lời xin lỗi về sự nổi bật của địa điểm
mới của ngân hàng: “Đó là điều cuối cùng chúng tôi muốn. Nếu nó tùy
thuộc vào tôi, nó sẽ không bao giờ được xây dựng.”
Ông thừa nhận rằng bất chấp tầm nhìn khó chịu, tòa nhà có một số lợi
thế thực tế so với tòa nhà tiền thân của nó so với một cửa hàng sô
cô la. Thứ nhất, nó hoàn toàn có điều hòa không khí và khép kín, có
hầm tránh bom hạt nhân riêng ở tầng hầm phụ, hệ thống chữa cháy dự
phòng gấp ba lần (để không bao giờ phải gọi lính cứu hỏa bên ngoài
vào), một bệnh viện tư nhân. , và khoảng 20 dặm kho lưu trữ dưới
lòng đất.
Trong khi chúng tôi nói chuyện, mắt anh ấy không bao giờ rời khỏi
màn hình Reuters trong văn phòng của anh ấy, nơi báo hiệu những biến
động tiền tệ trên toàn cầu. Sau đó, anh ấy cung cấp cho tôi một
chuyến tham quan tòa nhà. Gunther Schleiminger, tổng giám đốc, đã hộ
tống tôi đi khắp các cấp độ khác nhau, và đưa ra một bài bình luận
tiết lộ về cách bố trí của một trong những tổ chức bí mật nhất thế
giới tài chính.
Tầng trên cùng, với tầm nhìn toàn cảnh ra ba quốc gia Đức, Pháp và
Thụy Sĩ, có một nhà hàng sang trọng, chỉ dùng để phục vụ bữa tối tự
chọn cho các thành viên vào tối Chủ nhật khi họ đến để bắt đầu
“những ngày cuối tuần ở Basel”.
Ngoài mười lần đó, tầng này vẫn trống rỗng một cách ma quái. Ba tầng
tiếp theo phía dưới là dãy văn phòng dành cho các quan chức ngân
hàng trung ương. Ở tầng tiếp theo là máy tính BIS, vào năm 1983, là
công nghệ hiện đại nhất. Nó được liên kết trực tiếp với máy tính của
các ngân hàng trung ương thành viên và cung cấp quyền truy cập tức
thời vào dữ liệu về tình hình tiền tệ toàn cầu.
căn phòng vàng
Trên sàn bên dưới nó là một ngân hàng thực sự, nơi 18 thương nhân,
chủ yếu đến từ Anh và Thụy Sĩ, đang bận rộn với các khoản vay ngắn
hạn trên thị trường đô la châu Âu. Họ chủ yếu nói tiếng Anh. Cuối
cùng, ở tầng thấp nhất, vàng được giao dịch nhộn nhịp.
Các thương nhân liên tục gọi điện thu xếp các khoản vay vàng của
ngân hàng cho các nhà môi giới chênh lệch giá quốc tế, do đó cho
phép các ngân hàng trung ương kiếm được tiền lãi từ tiền gửi vàng.
Thật vậy, BIS bị cấm theo luật của mình không được thực hiện bất cứ
điều gì ngoại trừ các khoản vay ngắn hạn. Vì vậy, hầu hết tất cả các
giao dịch được hỗ trợ bằng vàng đều diễn ra trong 30 ngày.
Để hỗ trợ các giao dịch của họ, những thương nhân này có khoảng 1/10
nguồn cung vàng của thế giới. Theo Tiến sĩ Leutwiler, lợi nhuận mà
BIS nhận được từ giao dịch này đã lên tới 162 triệu đô la vào năm
trước.
Nhưng tại sao các ngân hàng trung ương lại sử dụng BIS để giao dịch
vàng của họ? Ví dụ, ngân hàng Bundesbank của Đức có một bộ phận giao
dịch quốc tế tuyệt vời và 15.000 nhân viên - ít nhất gấp 20 lần số
nhân viên của BIS. Câu trả lời tất nhiên là bí mật.
Bằng cách kết hợp một phần dự trữ của họ với số tiền tương đương với
một quỹ đầu tư ngắn hạn khổng lồ, các ngân hàng trung ương đã tạo ra
một màn hình tiện lợi đằng sau đó họ có thể che giấu tiền gửi và rút
tiền của mình tại các trung tâm tài chính trên khắp thế giới. Và các
ngân hàng trung ương dường như sẵn sàng trả một khoản phí khiêm tốn
để sử dụng chiếc áo choàng của BIS. Họ cũng cung cấp cho nó một
khoản lợi nhuận đủ lớn để hỗ trợ các dịch vụ khác mà nó cung cấp cho
họ.
Trên giấy tờ, BIS là một tổ chức kỹ thuật nhỏ với chỉ 86 trong số
298 nhân viên được xếp hạng là nhân viên chuyên nghiệp vào năm 1983.
Nhưng được che giấu một cách khéo léo bên trong lớp vỏ bên ngoài
này, giống như một loạt các hộp Trung Quốc lồng vào nhau, là các
hoạt động thực sự đòi hỏi hỗ trợ của các ngân hàng trung ương trên
thế giới.
Hộp đầu tiên bên trong ngân hàng là hội đồng quản trị, gồm tám ngân
hàng trung ương châu Âu (Anh, Thụy Sĩ, Đức, Ý, Pháp, Bỉ, Thụy Điển
và Hà Lan), họp vào sáng thứ Ba của mỗi “cuối tuần Basel”. .”
Hội đồng cũng họp hai lần một năm tại Basel với các ngân hàng trung
ương của các quốc gia khác. Nó cung cấp một bộ máy chính thức để
giao dịch với các chính phủ châu Âu và các cơ quan quốc tế như IMF
hoặc Cộng đồng kinh tế châu Âu. Hội đồng xác định các quy tắc và
lãnh thổ của các ngân hàng trung ương với mục tiêu ngăn chặn các
chính phủ can thiệp vào mục đích của họ, bao gồm cả việc thiết lập
tỷ lệ dự trữ ngân hàng cho các khoản vay.
Để đối phó với thế giới nói chung, có một hộp khác của Trung Quốc
đối phó với “G-10”. Nhóm quyền lực này, kiểm soát hầu hết số tiền có
thể chuyển nhượng trên thế giới, nhóm họp trong các phiên dài vào
chiều thứ Hai của “cuối tuần Basel”.
Ở đây các vấn đề chính sách rộng lớn hơn, chẳng hạn như lãi suất,
tăng trưởng cung tiền, kích thích kinh tế (hoặc đàn áp), và tỷ giá
tiền tệ được thảo luận.
Trực thuộc G-10, và phục vụ cho tất cả các nhu cầu đặc biệt của nó,
là một đơn vị nhỏ được gọi là “Cục Phát triển Kinh tế và Tiền tệ”,
hoạt động hiệu quả như một tổ chức tư vấn tư nhân của nó. Đơn vị này
thỉnh thoảng sản xuất các “giấy tờ kinh tế” có bìa màu xanh cung cấp
cho các chủ ngân hàng trung ương từ Singapore đến Rio de Janeiro,
mặc dù họ không phải là thành viên của BIS, với một đảng phái thuận
tiện.
'Không sử dụng cho các chính trị gia'
Cuối cùng là câu lạc bộ bên trong, bao gồm khoảng nửa tá ngân hàng
trung ương quyền lực. Ngay cả khi BIS không tổ chức họp, họ vẫn liên
lạc với nhau thường xuyên qua điện thoại. Và tất cả họ đều nói cùng
một ngôn ngữ khi nói đến các chính phủ, đã chia sẻ những kinh nghiệm
tương tự. “Một số người trong chúng tôi là những người bạn rất lâu
năm,” Pohl nói, và chia sẻ cùng một tập hợp các giá trị rõ ràng về
tiền bạc.
Một giá trị như vậy là niềm tin vững chắc rằng các ngân hàng trung
ương nên hành động độc lập với chính phủ nước họ. Theo Pohl, giá trị
được chia sẻ thứ hai là các chính trị gia không nên được tin tưởng
để quyết định số phận của hệ thống tiền tệ quốc tế. Khi Leutwiler
trở thành chủ tịch của BIS vào năm 1982, ông nhấn mạnh rằng không
một quan chức chính phủ nào được phép đến thăm trong “ngày cuối tuần
ở Basel”. “Thành thật mà nói,” anh nói, “tôi không có ích gì với các
chính trị gia. Họ thiếu sự phán xét của các chủ ngân hàng trung
ương.”
Điều này tổng kết một cách hiệu quả sự ác cảm chung của câu lạc bộ
nội bộ đối với “sự lộn xộn của chính phủ”, như Pohl đã gọi nó trong
bữa trưa Bundesbank của chúng tôi. Giá trị khác được chia sẻ bởi câu
lạc bộ nội bộ là niềm tin rằng khi tiếng chuông điểm cho bất kỳ ngân
hàng trung ương nào, nó sẽ thu phí cho tất cả các ngân hàng đó.
Leutwiler giải thích: “Chúng tôi liên tục tham gia vào một hành động
cân bằng mà không có mạng lưới an toàn.
Khi Mexico đối mặt với tình trạng phá sản vào đầu những năm 1980,
vấn đề đối với câu lạc bộ nội bộ không phải là phúc lợi của quốc gia
đó mà là sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Đó rõ ràng là
một trường hợp khẩn cấp cho câu lạc bộ bên trong. Mặc dù IMF đã sẵn
sàng can thiệp, nhưng sẽ cần nhiều tháng làm thủ tục giấy tờ để được
phê duyệt khoản vay và Mexico cần ngay lập tức 1,85 tỷ đô la.
Sau khi nói chuyện với Miguel Mancera, giám đốc Banco de Mexico, Chủ
tịch Fed khi đó là Paul Volcker đã gọi điện cho Leutwiler, người
đang đi nghỉ ở ngôi làng miền núi Grison của Thụy Sĩ. Leutwiler nhận
ra rằng toàn bộ hệ thống đang phải đối mặt với một quả bom hẹn giờ
tài chính. Trong vòng chưa đầy 48 giờ, Leutwiler đã gọi điện cho các
thành viên của câu lạc bộ nội bộ và sắp xếp khoản vay bắc cầu tạm
thời.
Trong khi khoản vay xuất hiện trên báo chí tài chính là đến từ BIS,
thì hầu như tất cả các khoản tiền đều đến từ các ngân hàng trung
ương trong câu lạc bộ bên trong. BIS chỉ đơn thuần cung cấp một
chiếc áo choàng tiện lợi cho các ngân hàng trung ương; Volcker và
các thành viên khác sẽ phải chịu sức nóng chính trị cá nhân cho
những gì dường như là giải cứu một quốc gia kém phát triển.
BIS đã không thay đổi nhiều kể từ chuyến thăm của tôi 28 năm trước.
Mặc dù Nga, Trung Quốc và những người chơi mới khác hiện đang gửi
quan sát viên đến các cuộc họp ở Basel, câu lạc bộ nội bộ vẫn điều
hành nó. Và câu lạc bộ đó vẫn trung thành với sứ mệnh giải cứu hệ
thống ngân hàng khỏi các chính trị gia.
Kết nối dữ liệu
Khám phá kho lưu trữ kết nối dữ liệu
RIJ Publishing, 4340 Knollwood Dr., Emmaus, PA 18049, 610-965-3103
Tạp chí Thu nhập Hưu trí là ấn phẩm tin tức kỹ thuật số hàng tuần
dành cho doanh nghiệp với doanh nghiệp và trang web dành cho các
công ty bảo hiểm nhân thọ, quản lý tài sản, cố vấn tài chính, học
giả, luật sư, cơ quan quản lý và công ty công nghệ trên toàn thế
giới có sản phẩm và dịch vụ giúp Baby Boomers chuyển đổi khoản tiết
kiệm của họ thành trọn đời thu nhập. Được thành lập vào năm 2009 và
do tác giả Kerry Pechter của "Annuities for Dummies" sản xuất, nó
tiếp cận 7.000 độc giả trực tuyến 48 lần một năm.
Liên hệ với RIJ tại: kerry.pechter@retirement incomejournal.com
Ai thống trị thị trường tài chính thế giới?
qua Richard O'Brien
The Vandals' Crown: Các nhà giao dịch tiền tệ nổi loạn đã lật đổ các
ngân hàng trung ương thế giới như thế nào
bởi Gregory J. Millman
New York: Báo chí tự do, 1995
Bretton Woods: Nhìn về tương lai
bởi Ủy ban Bretton Woods
Washington, DC: Ủy ban Bretton Woods, tháng 7 năm 1994
Orange County, Metallgesellschaft, Gibson Greetings và Procter &
Gamble là một bộ tứ chiết trung có một điểm chung: tất cả đều là
những kẻ thua cuộc trong các thị trường phái sinh toàn cầu mới. Tổn
thất của họ, dù kịch tính đến đâu, cũng không làm sụp đổ hệ thống
tài chính thế giới. Thật vậy, có khả năng số tiền bị mất khi thị
trường trái phiếu sụp đổ vào năm 1994 nhiều hơn số tiền bị mất cho
đến nay trong những vụ việc được công bố rộng rãi này. Nhưng những
tổn thất có thể nhìn thấy như vậy trong một thị trường mà từ lâu mọi
người vẫn nghi ngờ là không chắc chắn và nguy hiểm đã làm dấy lên
những lo ngại mới về sự ổn định của hệ thống tài chính quốc tế.
Các nhà quan sát lần đầu tiên đưa ra quan ngại về hệ thống tài chính
toàn cầu vào năm 1971, khi sự sụp đổ của tỷ giá hối đoái cố định của
hệ thống Bretton Woods khiến các loại tiền tệ phải chịu sự chi phối
của thị trường. Ngày nay, việc sử dụng các công cụ phái sinh đã làm
sống lại những nỗi sợ hãi đó bằng cách cung cấp cho những người tham
gia thị trường những công cụ mạnh mẽ hơn để đặt cược vào tương lai.
Những công cụ này càng làm giảm khả năng của các chính phủ trong
việc xác định tỷ giá hối đoái và lãi suất. Nhưng cuộc chiến giữa
chính phủ và thị trường không chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính sách
kinh tế; sự xuất hiện của các thế hệ sản phẩm phái sinh mới và những
tổn thất phát sinh cũng làm dấy lên mối lo ngại về việc thị trường
được điều tiết tốt như thế nào.
Một số chuyên gia tài chính tự tin rằng các sản phẩm mới có thể được
xử lý một cách an toàn. Đối với họ, sự phức tạp không đồng nghĩa với
rủi ro. Nhưng những người khác chỉ ra những tổn thất lớn phát sinh
trong vài năm qua và lo lắng về khả năng của các nhà đầu tư hiểu
được những rủi ro mà họ đang gánh chịu—một điểm mà sự thất bại của
Quận Cam đã mang lại sự báo thù. Và, trên phạm vi rộng lớn hơn, vẫn
còn những người khác bày tỏ lo ngại rằng các sản phẩm phức tạp bằng
cách nào đó có thể làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tài chính quốc tế.
Một số lo ngại rằng các công cụ phái sinh có thể làm sụp đổ hệ thống
tài chính toàn cầu.
Hai ấn phẩm mới đưa ra những quan điểm trái ngược nhau về những vấn
đề này. Trong một cuốn sách sống động, The Vandals' Crown,Nhà báo
Hoa Kỳ Gregory J. Millman mô tả chi tiết bằng hình ảnh bóng ma của
“những kẻ phá hoại” thị trường tự do đang càn quét trật tự đã được
thiết lập. Cuốn sách của Millman không có tính quy định; đúng hơn,
đó là lời cảnh báo kịp thời về sức mạnh tiềm ẩn của những kẻ phá
hoại – những người có tư tưởng tự do đến từ Chicago, những người đã
bỏ qua các rào cản thông thường bằng cách giao dịch bất cứ thứ gì và
mọi thứ có thể định giá được. Sự phá hoại này đã khiến một đế chế
ngày càng bất lực - được kiểm soát bởi các nhà hoạch định chính sách
kinh tế và cơ quan quản lý - bất lực trước cuộc tấn công dữ dội.
Millman khéo léo trình bày thị trường như những kẻ giải phóng khi
ông viết, “Giống như những kẻ phá hoại đã chinh phục thành Rome suy
tàn, những kẻ buôn bán tiền tệ quét sạch các đế chế kinh tế đã mất
khả năng chống cự. Hết lần này đến lần khác ở quốc gia này đến quốc
gia khác, khi các chính phủ không thể đối phó với thực tế tài chính
mới,
Các thị trường có một cách thuyết phục để báo hiệu quan điểm của họ
về chính sách của chính phủ. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán
năm 1987 phần lớn được kích hoạt bởi sự bất đồng công khai giữa các
nền kinh tế công nghiệp lớn - đặc biệt là Hoa Kỳ và Đức - về các
chính sách tiền tệ. Sự sụp đổ của thị trường trái phiếu năm 1994 cho
thấy phản ứng không chắc chắn, thậm chí là tâm thần phân liệt của
thị trường đối với nỗ lực kiểm soát lạm phát của Cục Dự trữ Liên
bang. Khi Fed tăng lãi suất vào tháng 2 năm 1994, ý định rõ ràng của
họ là đảm bảo rằng lạm phát sẽ không quay trở lại. Những người giao
dịch hoài nghi lắng nghe chăm chú – đầu tiên, bằng cách thể hiện sự
tôn trọng to lớn đối với Fed khi cho rằng nếu Fed cho rằng có thể có
vấn đề, thì có lẽ họ cũng nên lo lắng, và sau đó bằng cách nghi ngờ
liệu Fed có khả năng ngăn chặn lạm phát hay không.
Tuy nhiên, những người cai trị đế chế đã không nhượng bộ. Quan điểm
khác về cuộc đấu tranh giữa chính phủ và thị trường xuất phát từ
chính trái tim của tổ chức cố thủ: một báo cáo được công bố vào mùa
hè năm ngoái bởi Ủy ban Bretton Woods dải băng xanh dưới sự lãnh đạo
của cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Paul Volcker, người đàn ông
hơn bất kỳ ai khác đã nhân cách hóa quyền lực của chính phủ đối với
thị trường. Ấn phẩm, có tiêu đề Bretton Woods: Hướng tới tương lai,
kết hợp một tuyên bố chính sách ngắn gọn dài 9 trang với một loạt
các bài báo cơ bản có giá trị được viết chủ yếu bởi các học giả và
cựu quan chức nhà nước về các vấn đề liên quan đến hệ thống tiền tệ
quốc tế và hỗ trợ phát triển.
Chiến tranh tiền tệ
của John Calverley Ai kiểm soát nền kinh tế thế giới: chính phủ hay
thị trường? Theo một số nhà quan sát,...
Mặc dù văn xuôi không sặc sỡ như của Millman, nhưng các bài báo của
Bretton Woods là những bài trình bày về cuộc tranh luận rất dễ đọc
đối với cơ sở và những người tùy tùng của nó. Mặc dù những người
đóng góp chắc chắn sẽ thừa nhận rằng những kẻ phá hoại của Millman
đã gây rắc rối, nhưng họ vẫn không từ bỏ cuộc chiến. Họ vẫn tin
tưởng vào khả năng của một chính phủ tốt và quản lý kinh tế lành
mạnh - ngay cả khi đối mặt với các dòng vốn tự do, điều mang lại rất
nhiều quyền lực cho các thương nhân của Millman. Nhưng người ta cũng
có thể coi những người bảo vệ hệ thống này giống như những nhà cai
trị đang bị bao vây của La Mã, người cai trị một đế chế đang suy tàn
và thỉnh thoảng rút lui đến một thủ đô mới trong khi vẫn giả vờ rằng
đế chế này tồn tại.
Các bài báo được viết để đánh dấu kỷ niệm 50 năm hội nghị New
Hampshire, hội nghị đã thiết lập trật tự kinh tế thời hậu chiến và
các tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới. Và
mặc dù hệ thống Bretton Woods đã sụp đổ cách đây 24 năm, nhưng các
thể chế mà nó tạo ra vẫn không chịu chết. Thật vậy, lịch sử có rất
nhiều ví dụ về những cơ thể như vậy.
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế được thành lập sau Thế chiến I chủ yếu
để giải quyết các khoản bồi thường chiến tranh của Đức. Trong vòng
một năm, Đức đã từ chối các khoản thanh toán đó, nhưng BIS vẫn tiếp
tục là nơi gặp gỡ hữu ích của các ngân hàng trung ương. Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (sau đó được gọi là Tổ chức Hợp tác Kinh
tế Châu Âu) lần đầu tiên được thành lập sau Thế chiến II chỉ để quản
lý Kế hoạch Marshall, nhưng nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay, tìm
kiếm các thành viên mới và vai trò rộng lớn hơn.
Những người tham gia ủy ban thể hiện mong muốn thực sự để đẩy mạnh
hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế hơn là chỉ tìm kiếm một vai
trò mới cho các thể chế này. Mặc dù dựa vào thị trường để tự điều
tiết là một điệp khúc phổ biến trong thập kỷ qua, nhóm này kết luận
rằng thị trường đã không thực hiện công việc đủ tốt và kết quả là
tăng trưởng kinh tế thế giới đã bị ảnh hưởng. Khuyến nghị của họ để
quản lý hệ thống tiền tệ quốc tế? Thứ nhất, các chính phủ nên tăng
cường các chính sách kinh tế vĩ mô và đạt được sự hội tụ kinh tế lớn
hơn; và, thứ hai, họ nên thiết lập một hệ thống phối hợp chính thức
hơn để tránh những sai lệch và biến động tỷ giá hối đoái quá mức.
Rắc rối với những khuyến nghị này là chúng ít nhiều giống với những
gì các chính phủ và IMF đã cố gắng thực hiện trong hai thập kỷ qua,
với mức độ thành công khác nhau. Ngoài nỗ lực gấp đôi, không rõ tại
sao nỗ lực mới nhất này lại thành công hơn nữa.
Mặc dù các thành viên của Ủy ban Bretton Woods có thể không thừa
nhận điều đó, nhưng lý do thực sự để có các tổ chức như IMF, tổ chức
từng lấy sức mạnh từ quyền lực của các chính phủ thành viên, là giờ
đây chúng cần thiết như một phương tiện cho chính các chính phủ đó.
để tập hợp sức mạnh đang suy giảm của họ để chống chọi tốt hơn với
tội ác lớn hơn của lũ xâm lược. • • •
Các chính phủ có được sức mạnh kinh tế của họ từ bốn nguồn chính:
khả năng đánh thuế, in tiền, vay mượn và điều tiết thị trường tài
chính. Trong ba lĩnh vực đó—thuế, in tiền và quy định—họ có truyền
thống giữ vị trí độc quyền. Về khả năng đi vay, các chính phủ nắm
giữ vị trí đặc quyền chủ yếu xuất phát từ khả năng in số tiền họ cần
để trả nợ - điều thực sự có nghĩa là khả năng phá giá đồng tiền khi
các khoản nợ trở nên nặng nề.
Nhưng thị trường tài chính mở đe dọa những khả năng đó. Những người
chơi tài chính lớn cũng như các công dân cá nhân hiện có tùy chọn
chuyển sang các chế độ thuế khác một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Không phải ngẫu nhiên mà chính phủ Hoa Kỳ đang tiến hành một cuộc
chiến toàn cầu để giành quyền kiểm soát thu nhập chịu thuế của công
dân (tư nhân và doanh nghiệp). Không có gì đáng ngạc nhiên khi các
chính phủ châu Âu chậm từ bỏ các đặc quyền về thuế của chính họ, cho
một châu Âu thống nhất hoặc cho nhau.
In tiền vẫn là đặc quyền và độc quyền hợp pháp của các chính phủ,
nhưng tiêu chuẩn mà các chính phủ đang phải tuân theo xét về tính
lành mạnh của đồng tiền của họ ngày càng khắt khe hơn. Những loại
tiền tệ không vượt qua bài kiểm tra phải tự liên kết với các loại
tiền mạnh hơn, chẳng hạn như đồng đô la, hoặc công dân của họ sẽ
chuyển sang một loại tiền thay thế. Một ví dụ là đồng peso của
Argentina, hiện được liên kết trực tiếp với đồng đô la.
Đối với quyền đi vay, các chính phủ bị kỷ luật bởi một cuộc cạnh
tranh toàn cầu khốc liệt để giành được các quỹ. Ngay cả nước Đức
bình thường thận trọng, khi phải đối mặt với chi phí tài trợ cho
việc thống nhất, đã phải kiểm soát chặt chẽ việc vay mượn của mình
(hoặc trả tiền phạt bằng giá trị đồng tiền của mình). Các giới hạn
về khả năng đi vay tạo ra động lực mạnh mẽ cho các chính phủ giảm
chi tiêu đến mức tối thiểu, hạn chế hoạt động của họ đối với các
hoạt động kinh doanh cốt lõi của chính phủ và tư nhân hóa bất kỳ thứ
gì có thể tư nhân hóa.
Trong lĩnh vực quy định, vị trí của các chính phủ cũng đang bị đe
dọa. Nhưng ở đây ít rõ ràng hơn rằng quy luật thị trường được hoan
nghênh. Việc áp đặt kỷ luật tài chính đối với các chính phủ với tư
cách là người đi vay, với tư cách là cơ quan đánh thuế và với tư
cách là người phát hành tiền không phải là điều xấu, và hầu hết các
nhà kinh tế sẽ coi đó là thúc đẩy phân phối hiệu quả các nguồn lực.
Nhưng ít rõ ràng hơn nhiều rằng việc từ bỏ quy định của thị trường
tài chính đối với bản thân thị trường là một điều tốt. Đối với nhiều
người, có một chút thiếu sót khi yêu cầu những kẻ phá hoại tự kiềm
chế.
Từ bỏ quy định của thị trường tài chính đối với chính thị trường có
thể giống như yêu cầu những kẻ phá hoại tự kiềm chế.
Một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực quản lý là sự cởi mở của biên
giới và mối đe dọa đối với sự thống trị lãnh thổ của các nhà quản
lý. Biên giới đang bị thu hẹp không chỉ giữa các quốc gia mà còn
giữa các lĩnh vực tài chính khác nhau – giữa bảo hiểm và ngân hàng,
giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư, v.v. Việc xác định
lãnh thổ là khó khăn khi thị trường tồn tại chủ yếu trên mạng máy
tính và khi lĩnh vực không còn có thể được mô tả bằng vị trí thực
tế.
Trong một thế giới như vậy, các chính phủ có thể đáp ứng bằng cách
cùng nhau thiết lập các quy định toàn cầu. Cho đến nay, điều này có
nghĩa là thiết lập các tiêu chuẩn toàn cầu, chẳng hạn như tiêu chuẩn
vốn tối thiểu chung cho hoạt động ngân hàng quốc tế, sau đó phải
được thực thi bởi các chính phủ riêng lẻ. Tuy nhiên, ngay khi một
quá trình dài vừa hoàn thành thì thị trường đã chuyển sang gây ra
những vấn đề khác. Trong môi trường có nhịp độ nhanh này, các cơ
quan quản lý không chỉ được giao nhiệm vụ bảo tồn một hệ thống mà họ
không còn kiểm soát triệt để mà còn kiểm soát một hệ thống mà cả họ
và người chơi đều không hiểu thấu đáo.
Chúng ta có thể mong đợi điều gì xảy ra tiếp theo? Chúng ta có thể
thấy các cơ quan quản lý áp dụng các hình phạt nghiêm khắc hơn đối
với những người sai phạm và thúc giục sự minh bạch hơn để người tiêu
dùng và chính phủ có thêm thông tin. Các chính phủ và cơ quan quản
lý chắc chắn sẽ không ngừng nỗ lực hợp tác và tập hợp các nguồn lực
chống lại những kẻ phá hoại. Các chính phủ vẫn có quyền hạn to lớn,
bao gồm cả quyền lực gây bất ngờ cho thị trường bằng các động thái
chính sách. Và, theo thời gian, những kẻ phá hoại có thể chịu tổn
thất nặng nề vì sự tự tin của chính họ, khiến họ phải xem xét lại
hành động và điểm yếu của chính mình. Nhưng khi chính các cơ quan
tài chính bắt đầu tỏ ra ngạc nhiên về cách thị trường phản ứng với
các động thái của họ, người ta bắt đầu tự hỏi ai, nếu có ai, chịu
trách nhiệm.
Một phiên bản của bài báo này đã xuất hiện trong số tháng 3-tháng 4
năm 1995 của tạp chí Harvard Business Review .
Đọc thêm về Thị trường tài chính hoặc các chủ đề liên quan Kinh
doanh quốc tế , Kinh tế và Quản lý rủi ro
RO
Richard O'Brien là nhà kinh tế trưởng của American Express Bank. Ông
cũng là tác giả của Hội nhập tài chính toàn cầu: Sự kết thúc của địa
lý (Hội đồng Báo chí Quan hệ Đối ngoại, 1992).Sơ lược về lịch sử của
các ngân hàng trung ương
Michael D. Bordo
Tải PDF
Ngân hàng trung ương là thuật ngữ được sử dụng để mô tả cơ quan chịu
trách nhiệm về các chính sách ảnh hưởng đến nguồn cung tiền và tín
dụng của một quốc gia. Cụ thể hơn, một ngân hàng trung ương sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ - hoạt động thị trường mở, cho
vay chiết khấu, thay đổi yêu cầu dự trữ - để tác động đến lãi suất
ngắn hạn và cơ sở tiền tệ (tiền do công chúng nắm giữ cộng với dự
trữ ngân hàng) và để đạt được mục tiêu chính sách quan trọng.
Một trong những nhà sử học kinh tế hàng đầu thế giới giải thích các
động lực đằng sau sự phát triển của các ngân hàng trung ương hiện
đại, cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của chúng trong hệ thống
tài chính và nền kinh tế.
Ngân hàng trung ương là thuật ngữ được sử dụng để mô tả cơ quan chịu
trách nhiệm về các chính sách ảnh hưởng đến nguồn cung tiền và tín
dụng của một quốc gia. Cụ thể hơn, một ngân hàng trung ương sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ - hoạt động thị trường mở, cho
vay chiết khấu, thay đổi yêu cầu dự trữ - để tác động đến lãi suất
ngắn hạn và cơ sở tiền tệ (tiền do công chúng nắm giữ cộng với dự
trữ ngân hàng) và để đạt được mục tiêu chính sách quan trọng.
Có ba mục tiêu chính của chính sách tiền tệ hiện đại. Đầu tiên và
quan trọng nhất là sự ổn định về giá cả hoặc sự ổn định về giá trị
của đồng tiền. Ngày nay, điều này có nghĩa là duy trì tỷ lệ lạm phát
thấp kéo dài. Mục tiêu thứ hai là một nền kinh tế thực ổn định,
thường được hiểu là việc làm cao và tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững. Một cách khác để nói rằng chính sách tiền tệ được kỳ vọng sẽ
làm dịu chu kỳ kinh doanh và bù đắp những cú sốc đối với nền kinh
tế. Mục tiêu thứ ba là ổn định tài chính. Điều này bao gồm một hệ
thống thanh toán hiệu quả và vận hành trơn tru cũng như ngăn ngừa
các cuộc khủng hoảng tài chính.
khởi đầu
Câu chuyện về ngân hàng trung ương ít nhất đã có từ thế kỷ 17, thời
điểm thành lập tổ chức đầu tiên được công nhận là ngân hàng trung
ương, ngân hàng Riksbank của Thụy Điển. Được thành lập vào năm 1668
với tư cách là một ngân hàng cổ phần, nó được cấp phép cho chính phủ
vay vốn và hoạt động như một cơ quan thanh toán bù trừ thương mại.
Vài thập kỷ sau (1694), ngân hàng trung ương nổi tiếng nhất thời
đại, Ngân hàng Anh, cũng được thành lập như một công ty cổ phần để
mua nợ chính phủ. Các ngân hàng trung ương khác được thành lập sau
đó ở châu Âu với mục đích tương tự, mặc dù một số được thành lập để
giải quyết tình trạng hỗn loạn tiền tệ. Ví dụ, Banque de France được
thành lập bởi Napoléon vào năm 1800 để ổn định tiền tệ sau siêu lạm
phát tiền giấy trong Cách mạng Pháp, cũng như để hỗ trợ tài chính
của chính phủ.
Mặc dù các ngân hàng trung ương ban đầu này giúp tài trợ cho các
khoản nợ của chính phủ, nhưng họ cũng là các tổ chức tư nhân tham
gia vào các hoạt động ngân hàng. Bởi vì họ nắm giữ tiền gửi của các
ngân hàng khác, họ đóng vai trò là ngân hàng cho các chủ ngân hàng,
tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch giữa các ngân hàng hoặc
cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác. Chúng trở thành kho lưu trữ cho
hầu hết các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng vì có lượng dự trữ
lớn và mạng lưới rộng khắp các ngân hàng đại lý. Những yếu tố này
cho phép họ trở thành người cho vay cuối cùng khi đối mặt với khủng
hoảng tài chính. Nói cách khác, họ sẵn sàng cung cấp tiền mặt khẩn
cấp cho các phóng viên của họ trong thời điểm khó khăn về tài chính.
chuyển tiếp
Hệ thống Dự trữ Liên bang thuộc về làn sóng sau này của các ngân
hàng trung ương, xuất hiện vào đầu thế kỷ XX. Các ngân hàng này được
thành lập chủ yếu để hợp nhất các công cụ khác nhau mà mọi người
đang sử dụng để đổi tiền và để cung cấp sự ổn định tài chính. Nhiều
người cũng được tạo ra để quản lý bản vị vàng mà hầu hết các quốc
gia đều tuân thủ.
Bản vị vàng, thịnh hành cho đến năm 1914, có nghĩa là mỗi quốc gia
xác định đồng tiền của mình theo trọng lượng vàng cố định. Các ngân
hàng trung ương nắm giữ lượng vàng dự trữ lớn để đảm bảo rằng tiền
giấy của họ có thể được chuyển đổi thành vàng, theo yêu cầu của điều
lệ của họ. Khi dự trữ của họ giảm do thâm hụt cán cân thanh toán
hoặc hoàn cảnh bất lợi trong nước, họ sẽ tăng lãi suất chiết khấu
(lãi suất mà họ sẽ cho các ngân hàng khác vay tiền). Làm như vậy sẽ
làm tăng lãi suất nói chung, từ đó thu hút đầu tư nước ngoài, do đó
mang nhiều vàng hơn vào trong nước.
Các ngân hàng trung ương tuân thủ quy tắc duy trì khả năng chuyển
đổi vàng của bản vị vàng trên tất cả các cân nhắc khác. Khả năng
chuyển đổi của vàng đóng vai trò là mỏ neo danh nghĩa của nền kinh
tế. Nghĩa là, lượng tiền mà các ngân hàng có thể cung cấp bị hạn chế
bởi giá trị của vàng mà họ dự trữ, và điều này đến lượt nó lại xác
định mức giá phổ biến. Và bởi vì mức giá được gắn với một loại hàng
hóa đã biết mà giá trị lâu dài của nó được xác định bởi các lực
lượng thị trường, nên những kỳ vọng về mức giá trong tương lai cũng
được gắn với nó. Theo một nghĩa nào đó, các ngân hàng trung ương ban
đầu đã cam kết mạnh mẽ với việc ổn định giá cả. Họ không lo lắng quá
nhiều về một trong những mục tiêu hiện đại của ngân hàng trung ương
- sự ổn định của nền kinh tế thực - bởi vì họ bị ràng buộc bởi nghĩa
vụ phải tuân theo bản vị vàng.
Các ngân hàng trung ương của thời đại này cũng học cách đóng vai trò
là người cho vay cuối cùng trong thời kỳ căng thẳng tài chính - khi
các sự kiện như mất mùa, vỡ nợ do đường sắt hoặc chiến tranh dẫn đến
một cuộc tranh giành thanh khoản (trong đó người gửi tiền chạy đến
ngân hàng của họ và cố gắng chuyển đổi tiền gửi thành tiền mặt). Bài
học bắt đầu từ đầu thế kỷ 19 như một hệ quả của phản ứng thông
thường của Ngân hàng Trung ương Anh đối với những cơn hoảng loạn như
vậy. Vào thời điểm đó, Ngân hàng (và các ngân hàng trung ương châu
Âu khác) thường bảo vệ dự trữ vàng của chính họ trước tiên, từ chối
các đại lý có nhu cầu. Làm như vậy đã gây ra những cơn hoảng loạn
lớn vào các năm 1825, 1837, 1847 và 1857, đồng thời dẫn đến sự chỉ
trích gay gắt đối với Ngân hàng. Đáp lại, Ngân hàng đã thông qua
“học thuyết trách nhiệm” do nhà văn kinh tế Walter Bagehot đề xuất,
đòi hỏi Ngân hàng phải gộp lợi ích cá nhân của mình vào lợi ích
chung của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Ngân hàng bắt đầu tuân theo
quy tắc của Bagehot, đó là cho vay tự do trên cơ sở bất kỳ tài sản
thế chấp hợp lý nào được cung cấp - nhưng với lãi suất phạt (nghĩa
là cao hơn lãi suất thị trường) để ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Ngân
hàng đã học được bài học tốt. Không có cuộc khủng hoảng tài chính
nào xảy ra ở Anh trong gần 150 năm sau năm 1866. Mãi đến tháng 8 năm
2007, nước này mới trải qua cuộc khủng hoảng tiếp theo.
Trải nghiệm ở Mỹ là thú vị nhất. Nó có hai ngân hàng trung ương vào
đầu thế kỷ 19, Ngân hàng Hoa Kỳ (1791–1811) và Ngân hàng thứ hai của
Hoa Kỳ (1816–1836). Cả hai đều được thành lập theo mô hình của Ngân
hàng Trung ương Anh, nhưng không giống như người Anh, người Mỹ có
tâm lý không tin tưởng sâu sắc vào bất kỳ sự tập trung quyền lực tài
chính nào nói chung và của các ngân hàng trung ương nói riêng, do đó
trong mỗi trường hợp, điều lệ là không đổi mới.
Sau đó là một giai đoạn 80 năm được đặc trưng bởi sự bất ổn tài
chính đáng kể. Từ năm 1836 đến khi Nội chiến bắt đầu—thời kỳ được
gọi là Kỷ nguyên Ngân hàng Tự do—các bang cho phép tham gia ngân
hàng tự do ảo với quy định tối thiểu. Trong suốt thời kỳ này, các
ngân hàng thường xuyên thất bại và một số cuộc khủng hoảng ngân hàng
đã xảy ra. Hệ thống thanh toán nổi tiếng là không hiệu quả, với hàng
nghìn tờ tiền ngân hàng nhà nước trông không giống nhau và tiền giả
đang được lưu hành. Đáp lại, chính phủ đã tạo ra hệ thống ngân hàng
quốc gia trong Nội chiến. Mặc dù hệ thống đã cải thiện hiệu quả của
hệ thống thanh toán bằng cách cung cấp một loại tiền tệ thống nhất
dựa trên tiền giấy ngân hàng quốc gia, nhưng nó vẫn không cung cấp
phương án cuối cùng cho người cho vay và thời đại đầy rẫy những cơn
hoảng loạn ngân hàng nghiêm trọng.
Cuộc khủng hoảng năm 1907 là cọng rơm làm gãy lưng con lạc đà. Nó
dẫn đến việc thành lập Cục Dự trữ Liên bang vào năm 1913, được giao
nhiệm vụ cung cấp một loại tiền tệ thống nhất và linh hoạt (nghĩa là
một loại tiền sẽ đáp ứng các chuyển động theo mùa, theo chu kỳ và
trường kỳ trong nền kinh tế) và đóng vai trò là người cho vay của
phương sách cuối cùng.
Nguồn gốc của các mục tiêu ngân hàng trung ương hiện đại
Trước năm 1914, các ngân hàng trung ương không coi trọng mục tiêu
duy trì sự ổn định của nền kinh tế trong nước. Điều này đã thay đổi
sau Thế chiến thứ nhất, khi họ bắt đầu quan tâm đến việc làm, hoạt
động thực tế và mức giá. Sự thay đổi phản ánh sự thay đổi trong nền
kinh tế chính trị của nhiều quốc gia—quyền bầu cử được mở rộng,
phong trào lao động gia tăng và các hạn chế đối với di cư được đặt
ra. Vào những năm 1920, Fed bắt đầu tập trung vào cả sự ổn định bên
ngoài (có nghĩa là theo dõi dự trữ vàng, vì Hoa Kỳ vẫn theo chế độ
bản vị vàng) và sự ổn định bên trong (có nghĩa là theo dõi giá cả,
sản lượng và việc làm). Nhưng chừng nào bản vị vàng còn chiếm ưu
thế, thì các mục tiêu bên ngoài vẫn chiếm ưu thế.
Thật không may, chính sách tiền tệ của Fed đã dẫn đến những vấn đề
nghiêm trọng trong những năm 1920 và 1930. Khi đề cập đến việc quản
lý lượng tiền của quốc gia, Fed tuân theo một nguyên tắc gọi là học
thuyết hóa đơn thực tế. Học thuyết lập luận rằng lượng tiền cần
thiết trong nền kinh tế sẽ được cung cấp một cách tự nhiên miễn là
các Ngân hàng Dự trữ chỉ cho vay tiền khi các ngân hàng xuất trình
thương phiếu tự thanh khoản đủ điều kiện để thế chấp. Một hệ quả tất
yếu của học thuyết hối phiếu thực là Fed không nên cho phép ngân
hàng cho vay để tài trợ cho hoạt động đầu cơ trên thị trường chứng
khoán, điều này giải thích tại sao Fed áp dụng chính sách thắt chặt
vào năm 1928 để bù đắp cho sự bùng nổ của Phố Wall. Chính sách này
đã dẫn đến sự khởi đầu của cuộc suy thoái vào tháng 8 năm 1929 và sự
sụp đổ vào tháng 10. Sau đó, đối mặt với một loạt khủng hoảng ngân
hàng từ năm 1930 đến năm 1933, Fed đã không thể đóng vai trò là
người cho vay cuối cùng. Kết quả là, nguồn cung tiền sụp đổ, kéo
theo đó là tình trạng giảm phát và suy thoái nghiêm trọng. Fed đã
sai lầm vì học thuyết hối phiếu thực khiến họ diễn giải lãi suất
danh nghĩa ngắn hạn thấp hiện hành là dấu hiệu nới lỏng tiền tệ, và
họ tin rằng không có ngân hàng nào cần tiền vì rất ít ngân hàng
thành viên tham gia vào cửa sổ chiết khấu.
Sau cuộc Đại suy thoái, Hệ thống Dự trữ Liên bang được tổ chức lại.
Đạo luật Ngân hàng năm 1933 và 1935 đã chuyển giao quyền lực dứt
khoát từ các Ngân hàng Dự trữ sang Hội đồng Thống đốc. Ngoài ra, Fed
đã trở thành phụ thuộc vào Kho bạc.
Fed giành lại độc lập khỏi Bộ Tài chính vào năm 1951, sau đó nó bắt
đầu tuân theo chính sách phản chu kỳ có chủ ý dưới sự lãnh đạo của
William McChesney Martin. Trong những năm 1950, chính sách này khá
thành công trong việc cải thiện một số cuộc suy thoái và duy trì lạm
phát thấp. Vào thời điểm đó, Hoa Kỳ và các quốc gia tiên tiến khác
là một phần của Hệ thống Bretton Woods, theo đó Hoa Kỳ neo đồng đô
la với vàng ở mức 35 đô la một ounce và các quốc gia khác neo vào
đồng đô la. Mối liên hệ với vàng có thể đã mang lại một số độ tin
cậy của một mỏ neo danh nghĩa và giúp giữ lạm phát ở mức thấp.
Bức tranh đã thay đổi đáng kể vào những năm 1960 khi Fed bắt đầu
thực hiện chính sách bình ổn tích cực hơn. Trong thập kỷ này, nó đã
chuyển các ưu tiên của mình từ lạm phát thấp sang việc làm cao.
Những lý do có thể bao gồm việc áp dụng các ý tưởng của Keynes và
niềm tin vào sự đánh đổi đường cong Phillips giữa lạm phát và thất
nghiệp. Hậu quả của sự thay đổi trong chính sách là sự gia tăng áp
lực lạm phát từ cuối những năm 1960 cho đến cuối những năm 1970.
Nguyên nhân của Đại lạm phát vẫn đang được tranh luận, nhưng thời
đại này nổi tiếng là một trong những thời điểm thấp nhất trong lịch
sử của Fed. Ảnh hưởng kiềm chế của mỏ neo danh nghĩa đã biến mất, và
trong hai thập kỷ tiếp theo, kỳ vọng lạm phát đã tăng lên.
Lạm phát kết thúc với liệu pháp sốc của Paul Volcker từ năm 1979 đến
năm 1982, liên quan đến việc thắt chặt tiền tệ và tăng lãi suất
chính sách lên hai con số. Cú sốc Volcker đã dẫn đến một cuộc suy
thoái nghiêm trọng, nhưng nó đã thành công trong việc phá vỡ những
kỳ vọng lạm phát cao. Trong những thập kỷ tiếp theo, lạm phát giảm
đáng kể và luôn ở mức thấp kể từ đó. Kể từ đầu những năm 1990, Fed
đã tuân theo chính sách lạm phát mục tiêu ngầm, sử dụng lãi suất quỹ
liên bang làm công cụ chính sách của mình. Ở nhiều khía cạnh, chế độ
chính sách hiện đang tuân theo nguyên tắc chuyển đổi của bản vị
vàng, theo nghĩa là công chúng đã tin vào độ tin cậy của cam kết lạm
phát thấp của Fed.
Một lực lượng quan trọng trong lịch sử của ngân hàng trung ương là
sự độc lập của ngân hàng trung ương. Các ngân hàng trung ương ban
đầu là tư nhân và độc lập. Họ phụ thuộc vào chính phủ để duy trì
điều lệ của họ nhưng nếu không thì được tự do lựa chọn các công cụ
và chính sách của riêng họ. Mục tiêu của họ bị hạn chế bởi khả năng
chuyển đổi vàng. Trong thế kỷ XX, hầu hết các ngân hàng trung ương
này đã bị quốc hữu hóa và hoàn toàn mất đi tính độc lập. Chính sách
của họ đã được quyết định bởi các cơ quan tài chính. Fed giành lại
độc lập sau năm 1951, nhưng sự độc lập của nó không phải là tuyệt
đối. Nó phải báo cáo với Quốc hội, cơ quan cuối cùng có quyền thay
đổi Đạo luật Dự trữ Liên bang. Các ngân hàng trung ương khác phải
đợi đến những năm 1990 để giành lại độc lập.
Ổn định tài chính
Một vai trò ngày càng quan trọng đối với các ngân hàng trung ương là
ổn định tài chính. Sự phát triển của trách nhiệm này diễn ra tương
tự ở các nước tiên tiến. Trong kỷ nguyên bản vị vàng, các ngân hàng
trung ương đã phát triển chức năng người cho vay cuối cùng, tuân
theo quy tắc của Bagehot. Nhưng các hệ thống tài chính trở nên không
ổn định giữa các cuộc chiến tranh thế giới, khi các cuộc khủng hoảng
ngân hàng lan rộng vào đầu những năm 1920 và 1930. Kinh nghiệm của
Fed là tồi tệ nhất. Phản ứng đối với các cuộc khủng hoảng ngân hàng
ở châu Âu vào thời điểm đó nói chung là cứu trợ các ngân hàng gặp
khó khăn bằng quỹ công. Cách tiếp cận này sau đó đã được Hoa Kỳ áp
dụng với Công ty Tài chính Tái thiết, nhưng ở quy mô hạn chế. Sau
thời kỳ suy thoái, mọi quốc gia đều thiết lập mạng lưới an toàn tài
chính, bao gồm bảo hiểm tiền gửi và quy định chặt chẽ bao gồm trần
lãi suất và tường lửa giữa các tổ chức tài chính và thương mại. Kết
quả là không có cuộc khủng hoảng ngân hàng nào từ cuối những năm
1930 cho đến giữa những năm 1970 ở bất cứ đâu trong thế giới tiên
tiến.
Điều này đã thay đổi đáng kể trong những năm 1970. Đại lạm phát làm
xói mòn trần lãi suất và truyền cảm hứng cho những đổi mới tài chính
được thiết kế để phá vỡ trần và các hạn chế khác. Những đổi mới này
đã dẫn đến việc bãi bỏ quy định và tăng cường cạnh tranh. Bất ổn
ngân hàng tái xuất hiện ở Hoa Kỳ và nước ngoài, với những ví dụ về
xáo trộn tài chính quy mô lớn như sự thất bại của Franklin National
năm 1974 và Continental Illinois năm 1984 và cuộc khủng hoảng tiết
kiệm và cho vay trong những năm 1980. Phản ứng đối với những xáo
trộn này là giải cứu các ngân hàng được coi là quá lớn để phá sản,
một phản ứng có thể làm tăng khả năng xảy ra rủi ro đạo đức. Nhiều
vấn đề trong số này đã được giải quyết bằng Đạo luật kiểm soát tiền
tệ và bãi bỏ quy định của các tổ chức lưu ký năm 1980 và Hiệp định
Basel I,
Một vấn đề khác đã xuất hiện trở lại trong thời hiện đại là sự bùng
nổ và phá sản tài sản. Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và nhà
ở thường gắn liền với giai đoạn bùng nổ của chu kỳ kinh doanh, và sự
phá sản thường gây ra suy thoái kinh tế. Chính sách của ngân hàng
trung ương chính thống là không xoa dịu sự bùng nổ trước khi chúng
chuyển sang phá sản vì sợ gây ra suy thoái mà là phản ứng sau khi sự
phá sản xảy ra và cung cấp thanh khoản dồi dào để bảo vệ hệ thống
thanh toán và ngân hàng. Đây là chính sách được Alan Greenspan áp
dụng sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1987. Đây cũng là
chính sách được áp dụng sau đó trong các cuộc khủng hoảng tài chính
mới bắt đầu vào những năm 1990 và 2000. Lý tưởng nhất là các chính
sách nên loại bỏ thanh khoản dư thừa sau khi nguy cơ khủng hoảng qua
đi.
Những thách thức cho tương lai
Thách thức chính mà tôi thấy các ngân hàng trung ương phải đối mặt
trong tương lai sẽ là cân bằng ba mục tiêu chính sách của họ. Mục
tiêu chính của ngân hàng trung ương là cung cấp sự ổn định về giá cả
(hiện được coi là lạm phát thấp trong một thời gian dài). Mục tiêu
này đòi hỏi sự tín nhiệm để làm việc. Nói cách khác, mọi người cần
tin rằng ngân hàng trung ương sẽ thắt chặt chính sách nếu lạm phát
đe dọa. Niềm tin này cần phải được hỗ trợ bởi các hành động. Đó là
trường hợp vào giữa những năm 1990 khi Fed thắt chặt chính sách để
đối phó với lo ngại lạm phát. Một chiến lược như vậy có thể được
tăng cường đáng kể nhờ giao tiếp tốt.
Mục tiêu chính sách thứ hai là sự ổn định và tăng trưởng của nền
kinh tế thực. Bằng chứng đáng chú ý cho thấy rằng lạm phát thấp có
liên quan đến tăng trưởng tốt hơn và hoạt động kinh tế vĩ mô nói
chung. Tuy nhiên, những cú sốc lớn vẫn xảy ra, đe dọa làm chệch
hướng nền kinh tế khỏi lộ trình tăng trưởng của nó. Khi những tình
huống như vậy đe dọa, nghiên cứu cũng cho thấy rằng ngân hàng trung
ương nên tạm thời rời khỏi mục tiêu lạm phát dài hạn và nới lỏng
chính sách tiền tệ để bù đắp cho các lực lượng suy thoái. Hơn nữa,
nếu các tác nhân thị trường tin tưởng vào độ tin cậy lâu dài của cam
kết lạm phát thấp của ngân hàng trung ương, thì việc cắt giảm lãi
suất chính sách sẽ không gây ra kỳ vọng lạm phát cao. Một khi tránh
được suy thoái hoặc đã đi đúng hướng, ngân hàng trung ương cần tăng
lãi suất và quay trở lại mục tiêu lạm phát thấp.
Mục tiêu chính sách thứ ba là ổn định tài chính. Nghiên cứu đã chỉ
ra rằng nó cũng sẽ được cải thiện trong môi trường lạm phát thấp,
mặc dù một số nhà kinh tế cho rằng sự bùng nổ giá tài sản được sinh
ra trong một môi trường như vậy. Trong trường hợp một cuộc khủng
hoảng tài chính mới bắt đầu xảy ra như cuộc khủng hoảng vừa xảy ra
vào tháng 8 năm 2007, quan điểm hiện tại là đường lối chính sách nên
cung cấp bất kỳ tính thanh khoản nào cần thiết để xoa dịu nỗi sợ hãi
của thị trường tiền tệ. Một cửa sổ giảm giá mở và việc chấp nhận bất
kỳ tài sản thế chấp hợp lý nào được cung cấp được coi là đơn thuốc
chính xác. Hơn nữa, tiền nên được cung cấp ở mức phạt. Fed đã tuân
theo các quy tắc này vào tháng 9 năm 2007, mặc dù không rõ liệu các
quỹ có được cung cấp với lãi suất phạt hay không. Sau khi cuộc khủng
hoảng kết thúc, thường là trong vài ngày hoặc vài tuần,
Cục Dự trữ Liên bang đã theo chiến lược này sau Y2K. Khi không có
cuộc khủng hoảng tài chính nào xảy ra, nó đã nhanh chóng rút lượng
thanh khoản khổng lồ mà nó đã cung cấp. Ngược lại, sau khi cung cấp
tiền sau vụ tấn công 11/9 và vụ phá sản công nghệ năm 2001, nó cho
phép các quỹ bổ sung được duy trì trên thị trường tiền tệ sau khi
mối đe dọa khủng hoảng qua đi. Nếu thị trường không được cung cấp
nhiều thanh khoản trong một thời gian dài như vậy, thì lãi suất đã
không thấp như hiện nay trong những năm gần đây và sự bùng nổ nhà
đất có thể đã không lan rộng như trước đây.
Thách thức thứ hai liên quan đến thách thức đầu tiên là ngân hàng
trung ương phải theo kịp các đổi mới tài chính, điều có thể làm hỏng
sự ổn định tài chính. Những đổi mới trong thị trường tài chính là
một thách thức cần giải quyết, vì chúng thể hiện nỗ lực lách luật
cũng như giảm chi phí giao dịch và tăng cường đòn bẩy. Cuộc khủng
hoảng nợ dưới chuẩn gần đây là minh chứng cho sự nguy hiểm, vì nhiều
vấn đề xảy ra do các công cụ phái sinh được tạo ra để đóng gói các
khoản thế chấp có chất lượng đáng ngờ bằng những công cụ tốt hơn để
các công cụ này có thể được dỡ bỏ khỏi bảng cân đối kế toán của các
ngân hàng thương mại và đầu tư. Chiến lược này, được thiết kế để
loại bỏ rủi ro, có thể đã phản tác dụng do tính không rõ ràng của
các công cụ mới.
Thách thức thứ ba mà Cục Dự trữ Liên bang đặc biệt phải đối mặt là
liệu có áp dụng mục tiêu lạm phát rõ ràng như Ngân hàng Anh, Ngân
hàng Canada và các ngân hàng trung ương khác hay không. Ưu điểm của
việc làm như vậy là nó đơn giản hóa chính sách và làm cho nó minh
bạch hơn, giúp giảm bớt sự giao tiếp với công chúng và nâng cao uy
tín. Tuy nhiên, có thể khó kết hợp một mục tiêu rõ ràng với nhiệm vụ
kép của Fed là ổn định giá cả và việc làm cao.
Thách thức thứ tư đối với tất cả các ngân hàng trung ương là tính
đến toàn cầu hóa và các diễn biến từ phía cung khác, chẳng hạn như
bất ổn chính trị, giá dầu và các cú sốc khác, nằm ngoài tầm kiểm
soát của họ nhưng có thể ảnh hưởng đến giá cả toàn cầu và trong
nước.
Thách thức cuối cùng mà tôi muốn đề cập đến là liệu có nên thay thế
mục tiêu lạm phát rõ ràng hay ngầm định bằng mục tiêu mức giá, theo
đó lạm phát sẽ được giữ ở mức 0%. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng một mức
giá có thể là mục tiêu tốt hơn, bởi vì nó tránh được vấn đề trôi dạt
cơ sở (lạm phát được phép cộng dồn), và nó cũng ít có sự không chắc
chắn về giá trong dài hạn. Điều bất lợi là những cú sốc suy thoái có
thể gây ra giảm phát, trong đó mức giá giảm. Khả năng này sẽ không
thành vấn đề nếu neo danh nghĩa đáng tin cậy, bởi vì công chúng sẽ
nhận ra rằng các giai đoạn lạm phát và giảm phát chỉ là nhất thời và
giá cả sẽ luôn quay trở lại giá trị trung bình của chúng, tức là
hướng tới sự ổn định.
Một chiến lược như vậy không có khả năng được áp dụng trong tương
lai gần vì các ngân hàng trung ương lo ngại rằng giảm phát có thể
vượt khỏi tầm kiểm soát hoặc liên quan đến suy thoái do tính cứng
nhắc danh nghĩa. Ngoài ra, quá trình chuyển đổi sẽ liên quan đến
việc giảm kỳ vọng lạm phát từ mức ổn định hiện tại là khoảng 2%,
điều này có thể liên quan đến việc cố tình tạo ra một cuộc suy thoái
- một chính sách có thể sẽ không bao giờ được ưa chuộng.
Quan điểm mà các tác giả thể hiện trong Bình luận Kinh tế là của họ
và không nhất thiết là quan điểm của Ngân hàng Dự trữ Liên bang
Cleveland hoặc Hội đồng Thống đốc của Hệ thống Dự trữ Liên bang.
Người biên tập bộ truyện là Tasia Hane. Tác phẩm này được cấp phép
theo Giấy phép Quốc tế Creative Commons Attribution-NonCommercial
4.0. Bài viết này và dữ liệu của nó có thể sửa đổi; vui lòng truy
cập clevelandfed.org để
cập nhật.
Trích dẫn được đề xuất
Bordo, Michael D. 2007. “Lược sử các Ngân hàng Trung
ương.” Ngân hàng Dự trữ Liên bang Cleveland,
Bình luận Kinh tế
1/12/2007.
Kiểm duyệt thể hiện bản chất mọi rợ của bọn dân chủ cộng sản
Ukraine : Con tốt thí của các Tập Đoàn Công Nghiệp Chiến Tranh
Thuyết Âm Mưu diểm sách
https://databank.worldbank.org/source/world-development-indicators
Tù nhân quân sự Rochelle Walensky tội phản quốc | Tin tức thực tế (realrawnews.com)
https://www.piie.com/microsites/globalization/what-is-globalization?gclid
https://ballotpedia.org/Donald_Trump_presidential_campaign,_2016
https://www.npr.org/2016/11/05/500782887/donald-trumps-road-to-election-day
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_post%E2%80%932016_election_Donald_Trump_rallies
https://news.usni.org/2023/06/19/carrier-uss-ronald-reagan-now-in-the-south-china-sea
https://www.realcleardefense.com/2023/06/20/uss_ronald_reagan_enters_the_south_china_sea_941763.html
https://foreignpolicy.com/2022/07/11/afghanistan-taliban-mining-resources-rich-minerals/#
https://en.wikipedia.org/wiki/Mining_in_Afghanistan#:~:text=Afghanistan
https://yourlocalepidemiologist.substack.com/p/covid-19-vaccines-and-sudden-deaths
https://indepthnh.org/wp-content/uploads/2021/10/COVID-Report-from-Rep.-Weyler-3.pdf
https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_assistance_to_Vietnam
https://www.nolo.com/legal-encyclopedia/is-violating-a-shelter-in-place-order-a-crime.html#:
https://japantoday.com/category/world/bill-gates-to-meet-xi-jinping-in-beijing-on-friday
https://time.com/5888024/50-trillion-income-inequality-america/
https://moderndiplomacy.eu/2023/05/24/more-than-30-countries-want-to-join-the-brics/
https://factsanddetails.com/southeast-asia/Vietnam/sub5_9g/entry
https://search.archives.un.org/united-front-for-liberation-of-oppressed-races-fulro
https://military-history.fandom.com/wiki/United_Front_for_the_Liberation_of_Oppressed_Races
https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1964-68v05/terms
https://en.wikipedia.org/wiki/CIA_activities_in_Indonesia#:~:
https://www.vox.com/2020/5/11/21249203/venezuela-coup-jordan-goudreau-maduro-guaido-explain
https://theintercept.com/2020/05/09/venezuela-coup-regime-change/
https://www.historynet.com/ho-chi-minh-truman-letter-vietnam/#:~:text
https://projects.voanews.com/china/global-footprint/data-explorer/
https://www.aiddata.org/methods/tracking-underreported-financial-flows
https://www.cgdev.org/topics/sustainable-development-finance
https://www.cgdev.org/blog/breaking-logjam-african-debt-relief-third-way
https://www.cgdev.org/blog/will-china-play-its-part-addressing-african-debt-distress
https://stories.starbucks.com/stories/2023/starbucks-ceo-laxman-narasimhan-visits-partners-in-china/
https://www.chinadaily.com.cn/a/202302/13/WS63e99f3ba31057c47ebae6be.html
Indian
South Korea
Vietnam
Indonesia
Brazil
Komorro
Hoa Kỳ Hủy Bỏ Hoàn Toàn Việc Cưỡng Bách Thử Nghiệm Vaccin Covid 19
Vua Hàm Nghi xuống hịch Cần Vương - Võ Quang Yến - Chim Việt Cành Nam - Chim Việt (free.fr)
NATURAL RESOURCES
https://www.aiddata.org/data/aiddatas-global-chinese-development-finance-dataset-version-2-0
Phong-su-tu-lieu/Duong-Dai-Hai-va-to-chuc-ma-Tong-LD-lao-cong-VN-hai-ngoai-i25655/
https://www.atlanticcouncil.org/blogs/natosource/brzezinski-the-west-should-arm-ukraine/
https://www.criminalelement.com/the-murder-of-franklin-delano-roosevelt-tony-hays/
https://constitutioncenter.org/blog/looking-back-at-the-day-fdr-died
https://millercenter.org/president/fdroosevelt/death-of-the-president
https://macleans.ca/culture/books/the-huge-secret-about-fdrs-death/
https://www.heritage-history.com/index.php?c=read&author=josephson&book=roosevelt&story=death
https://www.vfw.org/join/member-benefits/publication-subscriptions
https://centurypast.org/books-nonfiction-subject-directory/military/
https://www.army.mil/e2/downloads/rv7/2020-2021_Weapon_Systems_Handbook.pdf
https://archive.org/details/Janes-WorldWarIiTanksAndFightingVehicles-TheCompleteGuide.pdf
https://centurypast.org/books-nonfiction-subject-directory/military/
https://www.sandboxx.us/blog/the-ultimate-guide-to-the-patriot-air-defense-system/
https://peoplesdispatch.org/2021/05/09/g7-or-failed-colonial-powers-telling-the-world-what-to-do/
https://share.america.gov/biden-us-to-donate-500-million-covid-19-vaccine-doses/
https://share.america.gov/theme/theme-government-civil-society/
https://openvault.wgbh.org/catalog/V_3267C58E4C104A54A0AFDF230D618AE6
https://share.america.gov/us-supports-waiving-rights-covid-19-vaccines/
https://share.america.gov/us-supports-waiving-rights-covid-19-vaccines/
https://www.greencarreports.com/news/1139636_2023-vinfast-vf-8-city-edition-test-drive-review
https://www.theautopian.com/2023-vinfast-v8-city-edition-review-it-breaks-do-not-buy/
https://jalopnik.com/vinfast-vf8-electric-car-first-drive-not-ready-for-u-s-1849892217
https://www.thedrive.com/news/the-2023-vinfast-vf8-got-skewered-in-first-drive-reviews
https://www.roadandtrack.com/news/a43875030/2023-vinfast-vf8-first-drive-unacceptable/
https://start.cortera.com/company/research/m3r5nvk0q/nisbett-medical-llc/
https://finance.yahoo.com/news/georgia-structured-family-caregiving-medicaid-071900972.html
https://www.congress.gov/bill/117th-congress/house-bill/5908
https://www.thecrimson.com/article/1973/10/10/thieus-prisons-some-pows-cant-go/
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d%E1%BB%8Bch_Ph%E1%BB%A5ng_Ho%C3%A0ng
https://www.military.com/history/6-wild-us-government-conspiracy-theories-explained.html
https://www.splcenter.org/fighting-hate/extremist-files/ideology/conspiracy-propagandists
https://academic.oup.com/book/25369/chapter-abstract/192461943?redirectedFrom=fulltext
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_conspiracy_theories#Espionage
https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_conspiracy_theories#Espionage
https://en.wikipedia.org/wiki/Conspiracy_theories_in_United_States_politics
https://www.livescience.com/11375-top-ten-conspiracy-theories.html
https://journals.sagepub.com/doi/abs/10.1177/000271628145800119?journalCode=anna
https://www.historynet.com/ho-giap-and-oss-agent-henry-prunier/?f
https://www.historynet.com/tag/office-of-strategic-services-oss/
https://www.motortrend.com/reviews/2023-vinfast-vf8-electric-suv-first-drive-review/
https://www.motortrend.com/reviews/2023-vinfast-vf8-electric-suv-first-drive-review/
https://immigrantinvest.com/blog/top-10-richest-countries-world-en/
https://www.indexmundi.com/facts/indicators/NY.GDP.TOTL.RT.ZS/rankings
https://mronline.org/2023/04/15/if-the-u-s-cant-boss-the-world-it-will-spitefully-destroy-it/
https://mronline.org/2023/04/20/biden-doj-indicts-four-americans-for-weaponized-free-speech/
https://mronline.org/2023/04/19/militarism-and-the-coming-wars/
http://www.ucsj.org/wp-content/uploads/2012/12/Roots-of-Svoboda_2.pdf
https://www.europeaninterest.eu/article/darkest-side-dark-europe-neo-nazis-european-parliament/
https://mronline.org/2023/01/04/on-the-influence-of-neo-nazism-in-ukraine/
https://peoplesdispatch.org/2022/09/27/fascism-returns-to-europes-centerstage/
https://progressive.international/wire/2022-10-04-neo-fascism-in-italy-europes-involution/en
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7_ngh%C4%A9a_ph%C3%A1t_x%C3%ADt
https://avt.edu.vn/nuoc-duc/thu-tuc/chu-nghia-phat-xit-la-gi.html
https://bigthink.com/thinking/10-rules-conspiracy-theory-true-false/
https://www.rd.com/list/conspiracy-theories-that-turned-out-to-be-true/
https://www.livescience.com/11375-top-ten-conspiracy-theories.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95_ch%E1%BB%A9c_H%E1%BB%A3p_t%C3%A1c_
https://ustr.gov/countries-regions/europe-middle-east/middle-east/north-africa#:
https://www.fmprc.gov.cn/mfa_eng/wjbxw/202302/t20230220_11027664.html
https://wachouston.org/student-resources/discussions/memberships-landing-page-6/?
https://www.oxfordenergy.org/wpcms/wp-content/uploads/2021/02/OEF-126.pdf
https://www.specialeurasia.com/2022/07/14/rimpac-united-states-pacific/
https://news.usni.org/2022/06/29/rimpac-2022-kicks-off-in-hawaii-with-21-partner-nation-ships
https://www.heritage.org/sites/default/files/2022-10/2023_IndexOfUSMilitaryStrength.pdf
https://www.defense.gov/News/Feature-Stories/story/Article/3105469/rimpacs-got-impact/
https://www.capitol.hawaii.gov/sessions/session2023/bills/HR153_.HTM
https://www.japantimes.co.jp/news/2023/04/10/asia-pacific/china-taiwan-military-exercises-day-three/
https://onlinelibrary.wiley.com/doi/abs/10.1002/9781444351071.wbeghm020
https://behind-the-news.com/how-the-rockefellers-trumped-the-world/
https://www.bibliotecapleyades.net/esp_sociopol_rockefeller.htm
https://piotrbein.net/2020/12/18/rockefeller-lockstep-2010-was-blueprint-for-2020-covid-19-pandemic/
https://www.technocracy.news/the-great-reset-a-breakdown-of-the-global-elites-master-plan/
https://wolfstreet.com/2016/10/19/powers-on-forefront-of-war-on-cash/
https://historyofvaccines.org/vaccines-101/what-do-vaccines-do/different-types-vaccines
https://www.sciencedirect.com/topics/immunology-and-microbiology/inactivated-vaccine
https://www.chicoer.com/2021/07/22/letter-is-vaccine-comparable-to-mass-genocide
https://www.reuters.com/investigates/special-report/health-coronavirus-vaccines-skeptic/
Bill Gates and George Soros are targets of another COVID-19 conspiracy theory - Poynter
How Bill Gates became the voodoo doll of Covid conspiracies - BBC News
'Crazy and evil': Bill Gates surprised by pandemic conspiracies | Reuters
https://www.cnet.com/science/features/how-covid-19-infected-the-world-with-lies/
https://slate.com/technology/2021/07/noble-lies-covid-fauci-cdc-masks.html
https://dodbuzz.com/stock-market-stunned-many-investors-amid-of-considerable-risk/
https://thezebra.org/2021/08/
https://thethaiger.com/news/business/economic-aftershocks-of-russias-invasion-on-thailands-economy
Hàm Nghi - Thành Thái - Duy Tân - Khải Định - Bảo Đại
Above The Law. Unherd. New Republic.Transparency. Fortinet. Tech Target. Justice Initiative. FreedomWatch. PreventGennocide. National Library Of Medicine
https://www.defense.gov/News/Feature-Stories/story/article/2293108/
Breaking News & Views for the Progressive Community | Common Dreams
https://revealnews.org/podcast/the-pentagon-papers-secrets-lies-and-leaks-2021/
https://covertactionmagazine.com/2022/04/27/who-whacked-cia-spy-chief-william-colby/
https://www.c-span.org/video/?409091-1/william-colby-church-committee-hearing
https://www.timetoast.com/timelines/american-involvement-in-ww2
https://www.diffen.com/difference/World_War_I_vs_World_War_II
https://www.newagebd.net/article/159019/how-cia-plots-undermined-african-decolonisation
https://oig.justice.gov/sites/default/files/archive/special/9712/ch01p1.htm
https://www.cjr.org/opinion/what-the-dominion-lawsuit-reveals-about-the-future-of-fox-news.php
https://www.cjr.org/the_media_today/florida_blueprint_desantis_book_media.php
https://www.cliffsnotes.com/literature/a/animal-farm/character-list
https://courses.lumenlearning.com/suny-hccc-worldhistory2/chapter/the-treaty-of-brest-litovsk/
https://courses.lumenlearning.com/suny-hccc-worldhistory2/chapter/the-british-naval-blockade/
https://courses.lumenlearning.com/suny-hccc-worldhistory2/chapter/the-hundred-days-offensive/
https://www.compact.nl/en/articles/compact-a-magazine-in-transition/
https://www.sciencedirect.com/topics/social-sciences/military-industrial-complex
https://open.lib.umn.edu/sociology/chapter/13-5-the-military-industrial-complex/
https://www.americanforeignrelations.com/E-N/The-Military-Industrial-Complex.html
https://www.presidency.ucsb.edu/documents/fact-sheet-united-states-vietnam-education-cooperation
http://www.fetp.edu.vn/en/programs/master-in-public-policy-program/admissions/overview/
https://en.wikipedia.org/wiki/China_in_the_Vietnam_War#:~:text=Confronting%20U.S.%20escalation,
https://tunguyenhoc.blogspot.com/2013/05/ai-giet-pham-quynh-nguoi-nang-long-voi.html
https://vanlangseattle.org/public/documents/nguyendutruyenkieu.html
https://www.deseret.com/1989/5/16/18807144/china-admits-it-sent-troops-to-fight-the-u-s-in-vietnam
https://sputniknews.vn/20220314/ong-nguyen-chi-vinh-khong-the-noi-khac-14204378.html
https://rwmalonemd.substack.com/p/one-million-strong?utm_source=post-email-title&publication_id
citizenfreepress.com
stevekirsch.substack.com
https://knollfrank.github.io/HowBadIsMyBatch/batchCodeTable.html
https://www.theguardian.com/society/2020/sep/08/how-philanthropy-benefits-the-super-rich
https://www.gobankingrates.com/money/wealth/secrets-rich-person-knows/
https://theglobalhues.com/top-10-charitable-people-in-the-world/
https://www.propublica.org/article/billionaires-tax-avoidance-techniques-irs-files
https://www.webmd.com/alzheimers/ss/slideshow-raise-chances-dementia
https://prosecutenow.io/dld/LitigationConsolidationSummary.pdf
https://prosecutenow.io/dld/Executive-Summary_Prosecute-Now_dg_final_2.pdf
https://www.ojp.gov/ncjrs/virtual-library/abstracts/prosecution-fraud-and-official-corruption
https://www.globalcompliancenews.com/anti-corruption/anti-corruption-in-the-united-states/
https://www.commoncause.org/our-work/ethics-and-accountability/legislative-ethics/
https://www.foodandwaterwatch.org/2021/03/08/a-safe-sustainable-food-system/
https://www.gobankingrates.com/money/wealth/secrets-rich-person-knows/
https://www.gobankingrates.com/net-worth/politicians/donald-trump-net-worth/
https://www.gobankingrates.com/retirement/social-security/what-happens-social-security-you-die/
https://www.weforum.org/events/world-economic-forum-annual-meeting-2023?gclid
https://qz.com/davos-2023-world-economic-forum-attendees-1849990706
https://www.webmd.com/drugs/2/drug-6616/losartan-oral/details
https://www.nature.com/scitable/forums/genetics-generation/america-s-hidden-history-the-eugenics-movement-123919444/
http://en.kremlin.ru/ - http://programmes.putin.kremlin.ru/en/tiger/ - http://en.kremlin.ru/multimedia/video
https://mronline.org/2022/07/22/how-corrupt-is-ukrainian-president-volodymyr-zelensky/
http://johnhelmer.net/the-ukrainain-demilitarized-zone-negotiations-start-at-dead-end/
https://uncutnews.ch/pilot-verraet-die-elite-will-von-ungeimpften-piloten-herumgeflogen-werden/
https://dnyuz.com/2023/01/18/how-to-divide-the-working-class/
https://thespectator.com/topic/twilight-of-the-democrats-gerontocracy/
https://journals.sagepub.com/doi/abs/10.1177/0169796X0301900209?journalCode=jdsb
https://socialistcall.com/2022/11/30/socialists-should-support-the-popular-resistance-in-china/
https://novact.org/2014/04/eng-women-in-popular-resistence/?lang=en
https://www.thequint.com/voices/opinion/ukraine-war-why-popular-resistance-is-big-problem-for-russia
https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S1045235418302600
https://vinhdanhquanlucvietnamconghoa.blogspot.com/2008/05/quc-ca-vit-nam-cng-ha.html
https://www.danchimviet.info/nguon-goc-ban-quoc-ca-viet-nam-cong-hoa/04/2018/9553/
https://gocnhosantruong.com/component/k2/3293-nguon-goc-la-co-vang-va-ban-quoc-ca-viet-nam-cong-hoa
https://viettudomunich.org/2022/08/16/nguon-goc-ban-quoc-ca-viet-nam-cong-hoa/
https://baovecovang2012.wordpress.com/2022/03/23/quoc-ky-quoc-ca-viet-nam-co-gs-nguyen-ngoc-huy/2/
https://levinhhuy.wordpress.com/2016/05/29/quoc-ca-viet-nam/
https://freenations.net/germany-in-crisis-faces-war-reparations-claims
https://www.thoughtco.com/totalitarianism-definition-and-examples-5083506
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative
THÁNG 10
Thành Tựu Lớn Nhất Của Trump & Những Thành Tựu Của Tồng Thống Sau 42 tháng. Kim Âu (st)
Donald Trump Học Ở Đại Học Nào? Kim Âu (st)
Donald Trump Trị Gía Bao Nhiêu? Kim Âu (st)
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Thời Trump Kim Âu (st)
Những Tội Phạm Tỷ Phú Kim Âu (st)
Coronavirus, Có Phải Là Vũ Khí Sinh Học Không? Kim Âu (st)
UN, WHO, Gates Tìm Cách Thu Hút Quần Chúng Kim Âu (st)
Coronavirus Lockdown Những Chuyện Chưa Kể Kim Âu (st)
Nhận Thức Sai Lầm Về Virus Kim Âu (st)
Covid 19 Không Phải Là Một Loại Virus Mới Kim Âu (st)
Covid 19, Cuộc Lừa Đảo Vĩ Đại Kim Âu (st)
11 Thuyết Âm Mưu Kim Âu (st)
Vũ Hán, Từ Cách Mạng Văn Hóa Đến Covid 19 Kim Âu (st)
Covid 19= Nói Dối Hoàn Toàn Kim Âu (st)
Cuộc Điều Tra Của Thẩm Phán Durham Kim Âu (st)
Nếu Ứng Cử Viên Tổng Thống Qua Đời.. Điều Gì Sẽ Xảy Ra Kim Âu (st)
Bất Ngờ Tháng Mười 2020 Kim Âu (st)
Chủ Nghĩa Toàn Cầu vs Toàn Cầu Hóa Kim Âu (st)
Chỉ Có 6% Chết Vì COVID 19 Kim Âu (st)
Đọc: Death By China Kim Âu (st)
Trump's Agenda 2020 Kim Âu (st)
Những Ý Tưởng Nền Tảng Của Republican 2020 Kim Âu (st)
Truyền Thông Bất Lương Che GIấu 7 Sự Việc Quan Trọng Kim Âu (st)
Covid 19 Khai Thác Và Thao Túng Tâm Lý Sợ Hãi Kim Âu (st)
CoronavirusThay Đổi Thế Giới Vinh Viễn Kim Âu (st)
Trang Quyền Lợi Cử Tri (Voter) Kim Âu (st)
Kiểm Soát Dân Số: Hệ Tư Tưởng Ma Qủy Kim Âu (st)
Chiến Dịch Bôi Nhọ Các Bác Sĩ Xác Nhận Thuốc Trị Covid 19 Kim Âu (st)
Yale School of Public Health that was recently published in the American Journal of Epidemiology
Những Khoảnh Khắc Jane Phạm
Cờ Vàng Trong Tâm Tôi Christine Cao
Thôi Về Đi Con Christine Cao
Nợ Quốc Gia Dưới Thời Obama Kim Âu
Dư Luận Viên Báo Nói : Biến Tướng Của Hồng Vệ Binh Kim Âu
Event 21 Mẹ Đẻ Của COVID 19 Kim Âu
Khi Người Quốc Gia Trở Về Bùi Anh Trinh
Người Quốc Gia Hà Văn Sơn Về Nước Bùi Anh Trinh
Dân Chủ Với PheTa: Đó Là Dân Chủ Rừng Rú Kim Âu
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.worldometers.info/coronavirus/coronavirus-death-rate/
https://www.contagionlive.com/news/cdc-reports-13-million-flu-cases-thus-far-in-201920-season
https://www.kff.org/other/state-indicator/influenza-and-pneumonia-death-rate/?c
https://www.state.gov/the-united-states-announces-assistance-to-combat-the-novel-coronavirus/
https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/cases-updates/cases-in-us.html
https://usafacts.org/visualizations/coronavirus-covid-19-spread-map/
Vai Trò Của Trung Cộng Trong Chiến Tranh Việt Nam Kim Âu -ST
VĂN HÓA - LỊCH SỬ
https://founders.archives.gov/documents/Jefferson/99-01-02-7861
https://www.presidency.ucsb.edu/documents/proclamation-3204-obstruction-justice-the-state-arkansas
https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards - https://en.wikipedia.org/wiki/Red_Guards_(USA)
TỔNG HỢP BÀI VỞ CÁC DIỄN ĐÀN
The NewYorker .The NewYork Post .The Daily Caller .The Freedom Wire .The Total Conservative -
VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Những Yếu Tố Thuận Lợi Giúp Cho Chữ Quốc Ngữ Latin Phát Triển
Hậu Qủa Thời Pháp Thuộc: Lịch Sử,Văn Hóa Việt Bị Xóa Trắng Kim Âu
Vatican 5 Lần Vận Động Ngoại Cường Xâm Lược Việt Nam Nguyễn Mạnh Quang
Giáo Hội La Mã: Lịch Sử - Hồ Sơ Tội Ác Nguyễn Mạnh Quang
https://hockinhthanh.weebly.com/uploads/7/8/3/9/7839436/khai_huyen_-_warren_w._wiersbe.pdf
Tặng Kim Âu
Chính khí hạo nhiên! Tổ Quốc tình.
Nghĩa trung can đảm, cái thiên thanh.
Văn phong thảo phạt, quần hùng phục.
Sơn đỉnh vân phi, vạn lý trình.
Thảo Đường Cư Sĩ.
MINH THỊ
LỊCH SỬ ĐÃ CHỨNG MINH, KHÔNG MỘT ĐÁM NGOẠI NHÂN NÀO YÊU THƯƠNG ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC CỦA CHÚNG TA NẾU CHÍNH CHÚNG TA KHÔNG BIẾT YÊU THƯƠNG LẤY ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC CỦA MÌNH.
DÂN TỘC VIỆT NAM PHẢI TỰ QUYẾT ĐỊNH LẤY VẬN MỆNH CỦA MÌNH CHỨ KHÔNG THỂ VAN NÀI, CẦU XIN ĐƯỢC TRỞ THÀNH QUÂN CỜ PHỤC VỤ CHO LỢI ÍCH CỦA NGOẠI BANG VÀ NHỮNG THẾ LỰC QUỐC TẾ.
Email: kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu